TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 159/2024/HS-ST NGÀY 04/07/2024 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 04 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 166/2024/TLST- HS ngày 05 tháng 6 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 217/2022/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 6 năm 2024 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Hoàng T, sinh năm: 1987 tại tỉnh Bình Dương; Nơi cư trú: Số B, khu phố Đ, phường V, thành phố T, tỉnh Bình Dương; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 06/12; Nghề nghiệp: Làm thuê; Con ông Nguyễn Văn H và bà Trương Thị G; Có vợ Liên Thị Bích H1 và 02 con sinh năm 2010 và 2015; Tiền án, tiền sự: Không;
Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/3/2024 cho đến nay. Có mặt.
2. Nguyễn Thanh T1, sinh năm: 1989 tại tỉnh Bình Dương; Nơi cư trú: Số D, khu phố Đ, phường V, thành phố T, tỉnh Bình Dương; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 08/12; Nghề nghiệp: Buôn bán; Con ông Nguyễn Văn H và bà Trương Thị G; Có vợ Nguyễn Thị T2 và 02 người con sinh năm 2012 và 2022; Tiền án, tiền sự: Không;
Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/02/2024 đến ngày 25/3/2024 được thay thế biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh. Có mặt.
- Bị hại: Ông Hà Mạnh Q, sinh năm: 1985; Nơi đăng ký HKTT: Số E, khu phố Đ, phường V, thành phố T, Bình Dương. Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.
- Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn H, ông Lê Văn Q1, bà Bùi Thị Mỹ L, ông Trần Trường T3, bà Đặng Thị Ngọc T4, bà Nguyễn Thị Thanh H2, ông Ngô Quốc V, bà Lê Thị Mỹ D, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Hoàng T, Nguyễn Thanh T1 là hai anh em ruột cùng bán hàng rau củ, bán cá tại khu vực vỉa hè đường V 41 đối diện trước khu C, khu phố H, phường V, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Ông Hà Mạnh Q và Lê Văn Q1 là bạn bè quen biết nhau ngoài xã hội. Khoảng 16 giờ 20 phút ngày 01/5/2023, T, T1 và Q1 xảy ra mâu thuẫn về việc nơi bán hàng trên vỉa hè, cự cãi thách thức đánh nhau. Lúc này, ông Q1 liên lạc với ông Q nhờ đến nói chuyện với T1, T để cho Q1 tiếp tục được bán hàng. Q đi đến thì nhìn thấy ông Q1 đứng tại vị trí bán dưa hấu trên tay cầm 01 đoạn ống vuông bằng kim loại đang cự cãi với T, T1 đứng gần đó nên Q đến gần vị trí của T nói chuyện dẫn đến thách thức đánh nhau. Thấy vậy, T lấy 01 con dao bằng kim loại ở vị trí đang bán cá cần trên tay, khi thấy T cầm dao thì Q1 sợ bị chém nên vứt ống vuông bằng kim loại bỏ chạy ra đường, còn Q bỏ chạy vào bên trong căn nhà: B, khu phố H, phường V, Thành phố T, tỉnh Bình Dương. Thấy Q bỏ chạy thì Thảo cầm con dao bằng kim loại, còn T1 nhặt 01 đoạn ống vuông bằng kim loại của ông Q1 vừa bỏ lại trên đường cầm trên tay, cả hai đuổi theo đến căn nhà nơi Q đang đứng cách đó khoảng 10 mét, Thảo cầm dao chém 01 nhát trúng vào vùng vai bên trái của ông Q gây thương tích, còn T1 cầm đoạn ống bằng kim loại đánh trúng vùng hông của ông Q. Khi bị đánh, ông Q dùng tay chống đỡ, giữ con dao trên tay T giằng co. Thời điểm này, ông Nguyễn Văn H là bố ruột của T và T1 chạy đến can ngăn. Sau đó, T và T1 bỏ đi khỏi hiện trường, còn ông Q được người dân đưa đến Bệnh viện Q3 điều trị thương tích.
Theo Kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 3892/KLTTCT ngày 20/62023 của Phân Viện KHHS tại Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận: Căn cứ thông tư số 22/2019/TTBYT ngày 28/8/2019 của Bộ trưởng bộ Y xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể từng thương tích của ông Hà Manh Q2 như sau: Sẹo mặt trước vai trái: 02% (C, mục I.2); Sẹo mặt ngoài vai trái: 02% (C, mục I.2); Sẹo vùng ngực, bụng trái: 01% (Chương 8, mục I.1); Sẹo phẫu thuật ½ trên ngoài cánh tay trái: 02% (C, mục I.2); Gãy đầu trên + liên mấu chuyển xương cánh tay trái: 11% (C, mục III.3.1). Áp dụng theo phương pháp cộng tại thông tư, xác định tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của ông Hà Mạnh Q tại thời điểm giám định là 17%.
Theo Kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 3905/ KLTTCT-C09B ngày 23/6/2023 của Phân Viện KHHS tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận thương tích của ông Hà Mạnh Q có đặc điểm phù hợp do vật sắc tác động gây ra.
Cáo trạng số 154/CT-VKS-TA ngày 04/6/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố các bị cáo: Nguyễn Hoàng T, Nguyễn Thanh T1 về tội “Cố ý gây thương tích” theo Điểm đ Khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa:
Vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:
Về trách nhiệm hình sự:
- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), đối với bị cáo Nguyễn Hoàng T.
- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 58, Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), đối với bị cáo Nguyễn Thanh T1.
Nguyễn Hoàng T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.
Nguyễn Thanh T1 từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 04 năm 06 tháng đến năm năm.
- Đối với 01 (một) con dao bằng kim loại và 01 (một) đoạn ống vuông bằng kim loại, dài khoảng 1 mét do Nguyễn Hoàng T, Nguyễn Thanh T1 sử dụng vào việc phạm tội, không thu hồi được nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T không đề nghị xử lý.
- Về xử lý vật chứng: 01 (một) USB chứa dữ liệu hình ảnh liên quan trong vụ án Cố ý gây thương tích đã giám định trích xuất hình ảnh được lưu vào hồ sơ vụ án.
- Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo Nguyễn Hoàng T, Nguyễn Thanh T1 đã bồi thường tổng số tiền 98.000.000 đồng cho bị hại ông Hà Mạnh Q gồm chi phí điều trị thương tích, chi phí ăn uống và tổn thất tinh thần, ông Q không yêu cầu gì thêm nên trách nhiệm dân sự không đặt ra.
- Các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thống nhất nội dung bản Cáo trạng đã truy tố, không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng, các bị cáo ăn năn hối cải, xin giảm nhẹ hình phạt.
- Bị hại không yêu cầu bồi thường thêm và xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Về sự vắng mặt của bị hại: Sau khi nhận Quyết định đưa vụ án ra xét xử của Toà án bị hại ông Hà Mạnh Q có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Xét thấy, đây là sự tự nguyện của bị hại. Việc vắng mặt của các bị hại không gây trở ngại cho việc xét xử và phù hợp với quy định Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án như lời khai của bị hại, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Do đó. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 16 giờ 40 phút ngày 01/5/2023, tại địa chỉ trước căn hộ số: B, Chung cư E, đường V, khu phố H, phường V, thành phố T, tỉnh Bình Dương, Nguyễn Hoàng T sử dụng hung khí là dao bằng kim loại chém vào vai trái của ông Hà Mạnh Q và Nguyễn Thanh T1 sử dụng hung khí đoạn ống vuông bằng kim loại đánh ông Hà Mạnh Q gây thương tích với tỷ lệ thương tích là 17%. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[4] Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy đã tố đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[5] Xét hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức được việc làm của mình là vi phạm nhưng vì mâu thuẫn nhỏ với nhau, các bị cáo không tìm cách ứng xử khác, phù hợp đạo đức, pháp luật mà sử dụng dao, ống kim loại là hung khí nguy hiểm để đánh bị hại gây thương tích. Hành vi của các bị cáo xâm phạm đến sức khỏe của người khác, gây mất trật tự, trị an tại địa phương, lỗi của các bị cáo là cố ý trực tiếp, do đó cần xử phạt các bị cáo với mức án tương xứng nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[6] Trong vụ án có vai trò đồng phạm nhưng đồng phạm giản đơn, không có sự phân công, bàn bạc cụ thể. Tuy nhiên, bị cáo T là người trực tiếp cầm dao chém bị hại, thể hiện bản chất nguy hiểm cho xã hội cao hơn nên phải chịu mức án cao hơn.
[7] Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. [8] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[9] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; bị hại cũng có một phần lỗi trong vụ án và có đơn yêu cầu giải nhẹ hình phạt cho các bị cáo, các bị cáo đều có hoàn cảnh khó khăn, có con còn nhỏ là tình tiết giảm nhẹ theo điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[10] Xét thấy bị cáo T1 có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng và việc không bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự và hướng dẫn của Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 (sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/8/2018) của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao cho bị cáo được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo. Đối với bị cáo T sau khi phạm tội bị cáo không tự nguyện trình báo cơ quan có thẩm quyền mà lại bỏ trốn gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố nên Hội đồng xét xử không áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự cho bị cáo.
[11] Lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh là phù hợp, riêng về hình phạt Viện kiểm sát đề nghị là hơi nghiêm khắc đối với các bị cáo nên Hội đồng xét xử điều tiết cho phù hợp.
[12] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu các bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.
[13] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Điểm đ khoản 2 Điều 134; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Nguyễn Hoàng T.
- Điểm đ khoản 2 Điều 134; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các Điều 58, 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Nguyễn Thanh T1.
- Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 (sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/8/2018) của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao đối với bị cáo Nguyễn Thanh T1.
- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
I. Về trách nhiệm hình sự:
Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hoàng T, Nguyễn Thanh T1 phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng T 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/3/2024.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T1 02 (hai) năm tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 (bốn) năm tính từ ngày tuyên án 04/7/2024.
Giao bị cáo Nguyễn Thanh T1 cho Ủy ban nhân dân phường V, thành phố T, tỉnh Bình Dương để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự năm 2019.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2019 hai lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của Bản án đã cho hưởng án treo.
II. Về án phí: Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
III. Về quyền kháng cáo:
Các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 159/2024/HS-ST
Số hiệu: | 159/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/07/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về