Bản án về tội cố ý gây thương tích số 154/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 154/2024/HS-PT NGÀY 28/08/2024 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 28 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 117/2024/TLPT-HS ngày 02 tháng 8 năm 2024 đối với bị cáo Danh D do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 42/2024/HS-ST ngày 27 tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang.

- Bị cáo có kháng cáo:

Danh Dang, sinh ngày 16/08/1992; Nơi ĐKTT và cư trú: Tổ F, ấp H, xã T, huyện H, tỉnh Kiên Giang; ngh nghiệp: àm thuê; trình độ h c vấn: 03/12; dân tộc: Khmer; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Danh S và bà Trịnh Kim H; (vợ thứ nhất: Nguyễn Thị Kim M, chết; vợ thứ hai: Danh Ng c D1, chưa đăng ký kết hôn); ti n án: không;

Tiền sự: Ngày 28/6/2021, TAND huyện Hòn Đất, Kiên Giang áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 20 tháng theo Quyết định số 06/QĐ-TA; đã chấp hành xong ngày 21/10/2022.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/11/2023 cho đến nay (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

Người bào chữa cho bị cáo Danh D: Bà Nguyễn Th - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm T2, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 05/11/2023, Danh D tổ chức nhậu tại nhà, gồm có: Phan Nhật 1, Phạm Thành Đ, âm Văn M1, Danh C và Phan An N. Trong lúc ngồi nhậu, Danh D g i điện thoại cho Nguyễn Thị Ô rủ xuống nhà nhậu, đồng thời nhờ Ô mua ma túy 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) để cả nhóm sử dụng. Ô nói không có ti n nên D kêu Ô đợi Dang chuyển khoản.

Do D cũng không có ti n nên D đưa 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo cho Phan Nhật 1, kêu âm Văn M1 đi u khiển xe chở L1 đến tiệm C1, ở ấp H, xã T, huyện H để cầm. L1 cầm được 1.300.000 đồng (Một triệu ba trăm nghìn đồng) rồi cùng M1 lên xe mô tô chạy v . Trên đường v , L1 và M1 ghé vào tiệm thuốc tây (không xác định địa chỉ) đưa 1.200.000 đồng (Một triệu hai trăm nghìn đồng) cho chủ tiệm thuốc tây, nhờ chuyển ti n vào số tài khoản của L1 đang quản lý, sử dụng, còn 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng) L1 mua nước uống. Dang kêu L1 chuyển khoản 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) cho Ô để mua ma túy.

Khi nhận được ti n, Ô g i điện thoại cho đối tượng tên ê Anh D2 (không rõ lai lịch) để hỏi mua ma túy 1.000.000 đồng (Một triệu đồng), D2 kêu Ô đợi ở nhà sẽ có người đến giao ma túy, nói xong Ôsil chuyển 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) vào số tài khoản cho D2, khoảng 10 phút sau có số điện thoại lạ g i cho Ô cho biết địa điểm để ma túy, nghe điện thoại xong Ôsil xóa số nhật ký cuộc g i, rồi đi ra đầu hẻm trước nhà nhận 01 gói ma túy. Sau đó, Ô cầm gói ma túy rồi đi u khiển xe mô tô biển số 68S1-X đến nhà D.

Khoảng 20 giờ cùng ngày, L1 điện thoại cho Ô và chở M1 đi đón Ô. Khi đi đến cầu V, xã T thì L1, M1 gặp Ô, L1 qua xe Ôsil để chở Ô, M1 chạy xe v đến nhà của D, lúc này D, Danh Ng c D1, Phan An N, Võ Tuấn A, Nguyễn Ng c T và Phạm Thành Đ đang ngồi nhậu. Ô đi vào, cầm gói ma túy vừa mua tại thành phố R ném xuống trước mặt D, D cầm gói ma túy rồi kêu L1 đi vào phòng ngủ của D lấy 01 (một) cái bình và 01 (một) bộ dụng cụ (nỏ) để sử dụng ma túy, L1 cầm gói ma túy đổ một phần ma túy vào bên trong bình dùng quẹt đốt lên, L1 sử dụng ma túy đầu tiên rồi cả nhóm xoay vòng cùng nhau sử dụng gồm: Dang, M1, Ô, Võ Tuấn A, Danh C, Nguyễn Ng c T, Danh Ng c D1 và Phạm Thành Đ. Trong lúc đang sử dụng ma túy, D lấy gói ma túy của Ô mua cho D chia ra làm 02 (hai) gói, lấy 01 (một) cục ma túy bỏ vào giữa tờ ti n mệnh giá 1.000 đồng rồi gập lại, số ma túy còn lại trong túi ni lông D cầm đem lên cất giấu ở gần bếp nấu ăn.

D đi vào phòng ngủ của mình lấy 01 (một) khẩu súng Rullo, tháo các bộ phận của khẩu súng ra để lau chùi, lúc này ê Thanh N1 đến nhà D, L1 đi ra mở cửa cho N1 thì phát hiện lực lượng Công an, L1 tri hô, thấy vậy D cầm tờ ti n mệnh giá 1.000 đồng bên trong có 01 (một) cục ma túy ném vào trong bồn cầu nhà vệ sinh và ném gói ma túy giấu ở bếp nấu ăn ra ngoài cửa sổ. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, lực lượng Công an đến bắt quả tang thu giữ trong bồn cầu nhà vệ sinh tờ ti n mệnh giá 1.000 đồng bên trong có 01 cục ma túy và 01 gói ma túy mà D đã ném; 02 khẩu súng loại R và dụng cụ dùng cho việc sử dụng trái phép chất ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 1132/K -KTHS ngày 13/11/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh K kết luận: 01 (một) cục tinh thể rắn trong suốt có khối lượng 0,3510 gam chứa trong 01 (một) tờ ti n Việt Nam mệnh giá 1.000 đồng gấp lại được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine.

Tại bản kết luận giám định số 1136/K -KTHS ngày 13/11/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh K kết luận: Các hạt tinh thể rắn, màu trắng, không đồng nhất chứa trong 01 (một) gói nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,8595 gam.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục IIC, STT 247 Nghị định 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ.

Tại bản kết luận giám định số 7042/K -KTHS ngày 15/11/2023 của Phân Viện khoa h c hình sự - Bộ C2 tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- Cây súng bằng kim loại gửi giám định (ký hiệu A) nguyên là súng đồ chơi nguy hiểm được chế tạo thủ công để bắn với đạn thể thao cỡ (5,6x15)mm. Hiện tại súng không bắn được đạn nổ nên không phải là vũ khí, vũ khí quân dụng hay công cụ hỗ trợ.

- Cây súng bằng kim loại gửi giám định (ký hiệu A1) là súng chế tạo thủ công nòng nhẵn sử dụng để bắn với đạn thể thao cỡ (5,6x15,5)mm. Hiện tại súng có đủ bộ phận và bắn được đạn nổ. Khẩu súng nêu trên là vũ khí có tính năng tác dụng tương tự vũ khí quân dụng và thuộc vũ khí quân dụng.

* V thu giữ vật chứng của vụ án, Cơ quan Cảnh sát đi u tra Công an huyện H đã thu giữ:

1) 01 (một) phong bì bao gồm 01 túi niêm phong đựng mẫu, 01 (một) tờ ti n Việt Nam mệnh giá 1.000 đồng và các hạt tinh thể là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng còn lại sau giám định là 0,2944 gam, được niêm phong trong một phong bì ký hiệu vụ số 1132/2023.

2) 01 (một) phong bì có ký hiệu vụ số 1136/2023, bên trong có một gói nylon chứa chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng còn lại sau giám định là 0,8280 gam.

3) 01 (một) đoạn đầu chai nhựa có nắp vặn màu trắng, kích thước 5cm x 4cm, trên nắp chai nhựa có gắn hai đoạn ống thủy tinh trong suốt, một đoạn gắn trong chai nhựa dài 9cm, một đoạn gắn trên nắp chai nhựa dài 4,5cm, có gắn ống hút nhựa màu xanh dài 30cm.

4) 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung, màu trắng đen, đã qua sử dụng.

5) 01 điện thoại di động, nhãn hiệu VIVO, màu xanh đen, đã qua sử dụng.

6) 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone 12 Promax, đã qua sử dụng.

7) 01 điện thoại di động, nhãn hiệu S3 A20s, màu xanh đen, màn hình bị nứt kính, đã qua sử dụng.

Những vật chứng từ mục 1 đến mục 7 đã nhập kho vật chứng chờ xử lý.

* V xử lý vật chứng:

- 01 (một) cây súng bằng kim loại, thân súng màu đen, ốp tay cầm màu bạc, trên thân súng có ký hiệu MADE IN CHINA, SMITH & WESSON, số hiệu XY 230308868 (ký hiệu A). Cơ quan CSĐT Công an huyện đã chuyển cho Cơ quan An ninh đi u tra - Công an tỉnh K.

- 01 (một) cây súng bằng kim loại, thân súng màu trắng, ốp tay cầm màu đen, trên thân súng có ký hiệu MADE IN CHINA, SMITH & WESSON (ký hiệu A1). Cơ quan CSĐT Công an huyện đã chuyển cho Cơ quan An ninh đi u tra - Công an tỉnh K.

* Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 42/2024/HS-ST ngày 27 tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang đã quyết định:

1. Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Danh D 02 (H1) năm tù v tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Danh Dang 08 (T1) năm tù v tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự v tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Danh D phải chấp hành hình phạt chung của hai tội danh nêu trên là 10 (M2) năm tù. Thời điểm tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tam giam ngày 06/11/2023.

Xử phạt bị cáo Phan Nhật L1 07 (B) năm tù; bị cáo âm Văn M1 07 (Bảy) năm tù và bị cáo Nguyễn Thị Ô 08 (T1) năm tù cùng v tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và báo quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 02/7/2024, bị cáo Danh D có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

* Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo thừa nhận cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo v tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự là đúng tội và giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên tòa: V tội danh, cấp sơ thẩm xét xử bị cáo v tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự có căn cứ và đúng pháp luật. Cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng cho bị cáo tình tiết thành khần khai báo, ăn năn hối cải, xử phạt bị cáo 10 năm tù v 02 tội danh là tương xứng hành vi phạm tội. Bị cáo kháng cáo nhưng không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên đ nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] V tính hợp pháp của đơn kháng cáo:

Xét đơn kháng cáo của bị cáo v nội dung, quy n kháng cáo, thủ tục kháng cáo và thời hạn kháng cáo đã đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét đơn kháng cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] V quyết định của Bản án sơ thẩm:

Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 05/11/2023, tại Tổ F, ấp H, xã T, huyện H, tỉnh Kiên Giang, Danh D, Phan Nhật L1, âm Văn M1 và Nguyễn Thị Ô đã có hành vi mua ma tuý v tổ chức sử dụng trái phép cho Võ Tuấn A, D, Nguyễn Ng c T, Danh Ng c D1 và Phạm Thành Đ thì bị phát hiện bắt giữ. Ngoài ra bị cáo Danh D còn có hành vi cất giấu 02 (hai) gói ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 1,2105 gam. Do đó cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo 08 năm tù v tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 255 và 02 năm tù v tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Hội đồng xét xử xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo nhận thức được rằng, Nhà nước nghiêm cấm m i hoạt động tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép chất ma túy, mà bất kỳ ai có hành vi xâm phạm trái phép đ u bị xử lý nghiêm. Hành vi của bị cáo mua ma túy v tổ chức sử dụng và cất giấu sử dụng là vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo 10 năm tù đối với 2 tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là tương xứng hành vi phạm tội của bị cáo.

Bị cáo có 01 ti n sự đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 20 tháng để đi u trị nhưng bị cáo vẫn tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy thể hiện ý thức xem thường pháp luật của bị cáo. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới nên Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[4] V quan điểm của đại diện Viện kiểm sát: Đ nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ chấp nhận.

[5] V án phí: Bị cáo kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các Quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

thẩm.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Danh D; giữ nguyên bản án sơ

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Danh D 02 (H1) năm tù v tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Danh D 08 (T1) năm tù v tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự v tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Danh D phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 10 (M2) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/11/2023.

3. V án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

Các Quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm số 42/2024/HS-ST ngày 27 tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

67
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 154/2024/HS-PT

Số hiệu:154/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/08/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;