Bản án về tội cố ý gây thương tích số 154/2019/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 154/2019/HS-ST NGÀY 05/11/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 05 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số145/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 149/2019/QĐXXST-HS ngày 21tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Quang S, sinh ngày 19 tháng 4 năm1997; nơi sinh: Lâm Đồng; nơi cư trú:Thôn B xã M, huyện L,tỉnh Lâm Đồng;nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1965và bà Đinh Thị M, sinh năm 1969; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giam từ ngày 21/6/2019 đến ngày 17/7/2019 được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp Bảo lĩnh; hiện đang tại ngoại tại thôn B xã M, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.(Có mặt)

 - Bị hại:Anh Phạm Minh T, sinh năm 1997;

Nơi cư trú: Thôn L, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận.(Vắng mặt)

- Người làm chứng:

1.Anh Nguyễn Văn B. (Vắng mặt) 2. Anh Lê Trung R.(Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giơ ngay 26/11/2018, Nguyên Quang S đến nhà anh Nguyễn Văn B tại địa chỉ đường B, phương G, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng để nhậu. Tại đây có Lê Trung R, Phạm Minh T cùng một số người bạn của anh B (không ro lai lich , đia chi) đến nhậu cùng. Đên khoang 23 giơ cung ngay thi ban cua anh B vê trươc con lai anh B, S, T và R ngôi nhâu . Trong luc ngôi nhâu , S noi a nh B cho S mươn măt băng đê bán đồ ăn vặt , T nghe vây xin lam chung nhưng S không đông y thi hai bên xay ra mâu thuân. Khoảng 00 giơ ngay 27/11/2018, T đi đon ngươi em ho tên T 1 (không ro lai lich, đia chi) và mua thêm khoảng 05-06 lon bia đê uông tiếp. Lúc này S nói“Thôi em say rôi nên không uông nưa” thì T trả lời “May không uông thi đưng nhin măt tao”, S không noi gi va noi R chơ vê phong tro cua minh cach nha anh B khoảng 01 km. Khi vê đên phong tro , S thấy 01 con dao dai kho ảng 40 cm, cán dao màu đen ở bãi rác trước dãy nhà trọ nên đã lấy con dao và giấu vào người rồi nói R chở S quay lại nhà anh B để lấy đồ. Khi gần đến nơi , S noi R đưng ơ ngoai đường đơi, còn S đi bô xuống hẻm đến nhà anh B và nhìn thây anh B , T và T1 vân đang ngôi nhâu , lúc này T ngôi quay lưng ra đương . S tiên đên đưng phia sau va hoi “Vân nhâu ha” rôi vô vai T hoi “Nhin gi trông căm cui thê” thì T đứng dậy quay măt ra phi a S va nói“May thich gi” rôi T dùng tay phải đấm 01 cái vào phía sau tai trái của S . Thây vây, nên S lây dao ra câm trên tay phai chem 03-04 nhát vào trán, tay, lưng cua T. Do bị chém nên T lao vào ôm S nên S lùi lại làm T bị ngã ở tư thế sấp . Lúc này, S tiêp tục dùng dao chém 01 nhát vào lưng T thì T bật dậy và S tiếp tục chém 01 nhát vào tay cua T va T bo chay vao hem sau đó đươc ban đưa đi câp cưu tai Bênh viên đa khoa Lâm Đông . Sau khi che m T xong , S câm dao chay ra ngoai noi R chơ về, khi đến ngã ba chùa L thì S vưt con dao vào thùng rác bên đư ờng. R chơ S vê nha cua S tại xã M, huyện L, tỉnh lâm Đồng ngủ đến 07 giơ sang cung ngay thi S chơ R vê lai thành phố Đ. Trên đương đi thì S kể cho R biêt viêc vưa chem T. Quá trình điều tra, S đa khai nhân toan bô hanh vi pham tôi cua minh.

Vật chứng của vụ án: 01 con dao dai khoang 40 cm, cán dao màu đen . Hiên cơ quan điều tra không thu hôi đươc.

Bị hại: Anh Pham Minh T bị S dùng dao chém gây nên vết thương trán phải 6cm, vết thương thái dương trái 7cm, vết thương lưng 4cm, vết thương cánh tay trái 5cm. Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 142/2019-TgT ngay 24/5/2019 của Trung tâm phap y tinh Lâm Đông kết luận tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tich gây nên tai thơi điêm giam đinh cua anh T la 14%. Quá trình điều tra, bị cáo S và gia đinh đã bôi thương cho anh T sô tiên la 60.000.000 đồng, anh T đã nhận đu sô tiên trên và không co yêu câu gi thêm.

Cáo trạng số 147/CT-VKS ngày 14/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Nguyễn Quang S về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a, i khoản 1, điểm đ khoản 2Điều 134 Bộ luật hình sự .

Tại phiên toà, Bị cáo S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu, bị cáo khai nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn giữa bị cáo và anh T là do anh T muốn bán hàng chung với bị cáo nhưng bị cáo không cho thì anh T đã chửi bới, đe doạ đòi phá quán. Khi bị cáo quay lại nhà của anh B thì T đã có lời nói thách thức và đã đấm trúng vào tai của bị cáo nên bị cáo mới rút dao ra chém anh T như cáo trạng đã nêu. Bị cáo thống nhất với nội dung bản cáo trạng, không có thắc mắc khiếu nại gì về kết luận giám định thương tích của bị hại, các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Người làm chứng anh Nguyễn Trung R xác định anh có tham gia nhậu tại nhà anh B cùng bị cáo S, anh T và những người khác nhưng trong lúc nhậu anh cũng không biết rõ mâu thuẫn giữa bị cáo S và anh T cụ thể như thế nào. Khi bị cáo S về phòng trọ thì bị cáo S nói anh chở quay lại nhà anh B để lấy đồ, anh không biết việc S chuẩn bị dao và khi đến gần nhà anh B thì anh đứng chờ ở xa nên không chứng kiến và không biết việc bị cáo S chém anh T. Khi anh chở S về nhà của S ngủ thì anh cũng không biết S vứt dao lúc nào và khi quay lại thành phố Đ thì S mới kể cho anh nghe việc S đã chém anh T. Bị cáo S khẳng định lời khai của anh R là đúng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng trình bày luận tội và tranh luận đối với bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo S tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, biên bản xác định hiện trường, biên bản kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án nên có đủ căn cứ xác định hành vi của bị cáo S đã dùng dao là hung khí nguy hiểm chém nhiều nhát vào người của anh T gây nên thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 14% đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”, tuy nhiên xét thấy trong vụ án này có một phần lỗi của người bị hại là đã có lời nói thách thức và dùng tay đấm bị cáo trước nên bị cáo mới bức xúc dùng dao chém bị hại nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng rút lại tình tiết “mang tính chất côn đồ” quy định tại điểm I khoản 1, Điều 134 Bộ luật hình sự đã truy tố đối với bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Quang S về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự. Trong quá trình điều tra truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, sau khi sự việc xảy ra đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả cho người bị hại, người bị hại cũng có một phần lỗi nên, xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mà áp dụng cho bị cáo hình phạt tù cho hưởng án treo dưới sự quản lý, giám sát của chính quyền địa phương cũng đủ răn đe, giáo dục đối với bị cáo. Đề nghị áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo S từ24 - 30 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 48 - 60 tháng.

Bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai trái, xin lỗi bị hại, cam đoan không vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạtvà cho bị cáo được hưởng án treo, bị cáo cam đoan cải tạo tốt để trở thành người công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Lạt, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị hại anh Phạm Minh T và người làm chứng anh Nguyễn Văn B vắng mặt không có lý do, tuy nhiên lời khai của họ đã có trong hồ sơ vụ án, việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên căn cứ Điều 292, 293 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Đối chiếu lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với lời khai của bị hại và những người tham gia tố tụng khác, kết luận giám định thương tích, cùng các tài liệu chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án nên có đủ căn cứ xác định: Khoảng 00 giờ ngày 17/05/2019, trong lúc ngồi nhậu tại nhà anh Nguyễn Văn B ở địa chỉ đường B, phường G, thành phố Đ, giữa bị cáo Nguyễn Quang S và anh Phạm Minh T xảy ra mâu thuẫn nên S không nhậu nữa và cùng anh Nguyễn Trung R đi về phòng trọ của S gần đó. Khi về phòng trọ, S nhìn thấy con dao dài khoảng 40cm ở bãi rác trước phòng trọ nên đã lấy cất vào áo và quay lại nhà anh B. Lúc này, S và anh T lại lời qua tiếng lại và anh T đã dùng tay đấm vào vùng sau tai trái của bị cáo nên bị cáo S đã lấy hung khí là con dao quay lại và sử dụng con dao nói trên chém nhiều nhát vào trán, tay, lưng cua anh T gây nên vết thương trán phải 6cm, vết thương thái dương trái 7cm, vết thương lưng 4cm, vết thương cánh tay trái 5cm với tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 14%. Hành vi của bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm a khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tình tiết tăng nặng, quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, bị cáo và gia đình đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại, bị hại cũng có một phần lỗi nên áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[5] Tính chất hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy rằng: Bản thân bị cáo là người đã thành niên, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ sức khoẻ của con người là vốn quý và luôn được pháp luật bảo vệ. Mọi hành vi xâm phạm đến sức khoẻ của con người một cách trái pháp luật đều bị nghiêm cấm, tuy nhiên bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của bị hại mà còn làm mất an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng Điều 65 cho bị cáo được hưởng án treo, giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật và tạo điều kiện cho bị cáo hoà nhập cộng đồng, cải tạo trở thành người công dân có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo S và gia đinh đã bôi thương sô tiên 60.000.000 đồng cho bị hại, bị hại không co yêu câu gi thêm nên không đề cập.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Quang S phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

2.Về hình phạt: Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự: Xử phạt Nguyễn Quang S 36 (ba mươi sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 (sáu mươi) tháng kể từ ngày tuyên án.

Trong thời gian thử thách, giao bị cáo S cho Ủy ban nhân dân xã M, huyện L, tỉnh Lâm Đồng, nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục bị cáo. Gia đình của bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo qui định tại Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Toà án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3.Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: bị cáo S phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 154/2019/HS-ST

Số hiệu:154/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;