Bản án về tội cố ý gây thương tích số 132/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 132/2022/HS-ST NGÀY 08/07/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 08 tháng 7 năm 2022, tại Phòng xử án hình sự thuộc Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 118/2022/TLST - HS ngày 13/6/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 127/2022/QĐXXST - HS ngày 16/6/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Tạ Văn Q; giới tính: Nam; sinh năm 1996; nơi sinh, tại tỉnh Phú Thọ; nơi ĐKHKTT: Thôn 10, xã P, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ; chỗ ở: Như trên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên cha: Tạ Văn C; họ tên mẹ: Phan Thị L (chết); hoàn cảnh gia đình: Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 24/4/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, theo Bản án số 25/2015/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/9/2015, theo Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù số 1275/GCN của Trại giam Tân Lập (Tổng cục VIII), đóng án phí ngày 17/8/2015 theo Biên lai thu tiền số 0009111 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ.

Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 09/12/2020 (có mặt).

Bị hại: Ông Nguyễn Đình N, sinh năm 1979 (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Nơi cư trú: Tổ 9, ấp 1B, xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngưi làm chứng:

1/ Ông Lê Văn D, sinh năm 1977 (vắng mặt).

Nơi cư trú: Nhà không số tổ 11, ấp 3, xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

2/ Bà Phạm Thị L, sinh năm 2000 (vắng mặt).

3/ Bà Vũ Thị Q, sinh năm 1985 (vắng mặt).

Cả hai cùng trú tại: Nhà không số tổ 9, ấp 1B, xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tạ Văn Q, Nguyễn Văn T, Lê Văn D có mối quan hệ là bạn bè vì là người cùng quê tại huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ.

Khong 20 giờ 30 phút ngày 09/9/2019, T và Q đang ngồi nhậu cùng với gia đình ông D tại xưởng nhà ông D ở địa chỉ nhà không số, tổ 11, ấp 3, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh. Một lúc sau, có bà Vũ Thị Q, bà Phạm Thị L đến tìm T để đòi lại tiền mà trước đây T đã ứng lương trước. (do trước đó T có làm thuê cho vợ chồng bà Q). Lúc này, T đi ra cự cãi với bà Q, bà L, sau đó vào trong xưởng lấy 01 con dao cầm trên tay đi ra chỉ vào mặt bà Q hăm dọa, bà Q, bà L sợ nên bỏ đi và điện thoại báo cho chồng là ông Nguyễn Đình N biết sự việc. Khoảng 10 phút sau, ông N đến trước cổng nhà của ông D, kêu T ra nói chuyện. T cầm dao đi ra và cự cãi với ông N một lúc thì cả hai giằng co với nhau; ông N đoạt lấy dao của T vứt lên xe lôi gần đó. Nghe tiếng cự cãi thì ông D và Q từ trong xưởng đi ra; cùng lúc này bà Q, bà L cũng quay lại thì thấy ông D và ông N đang cự cải về những mâu thuẫn trước đó giữa hai gia đình. Lúc này, Q nhặt con dao (trên xe lôi) kề vào cổ bà L nói “Mày ăn điêu nói khoét”, dùng tay tát vào mặt bà L rồi mang dao ra để cạnh chuồng chim gần đó. Thấy ông N định điện thoại báo Công an thì T lao vào dùng tay chân đánh ông N làm ông N té ngã; ông D thấy vậy nên can ngăn và giữ T lại. Khi ông N đứng dậy lùi lại vài bước thì Q dùng tay phải nhặt cục gạch ống dưới đất, từ phía sau đập vào đầu ông N gây thương tích làm ông N bỏ chạy. Ông D chạy theo một đoạn để xem thương tích của ông N nhưng không kịp nên quay lại. Riêng T và Q sau khi gây thương tích cho ông N thì bỏ trốn. Ông N được người thân đưa đến Phòng khám đa khoa Bình An, quận Bình Tân cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện Thống Nhất; sau đó ông N đến Công an xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh trình báo sự việc, đồng thời có đơn yêu cầu xử lý hình sự đối với Q và T.

Đi với bà Phạm Thị L không bị thương tích, từ chối giám định thương tật, không có yêu cầu xử lý hình sự đối với Tạ Văn Q. Vụ việc sau đó được Công an xã Vĩnh Lộc A lập hồ sơ ban đầu, chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh để điều tra xử lý theo thẩm quyền.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 1091/TgT.19 ngày 04/12/2019 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế Thành phố Hồ Chí Minh, đối với Nguyễn Đình N, kết luận:

Du hiệu chính qua giám định:

- Theo chứng nhận thương tích ngày bị đánh 09/9/2019 của Phòng khám đa khoa Bình An và bệnh án của Bệnh viện Thống Nhất: Chấn thương phần mềm gây rách da đã được khâu, hiện còn một sẹo phẳng kích thước 6x0,2cm tại đỉnh đầu lệch trái, ổn định.

Thương tích do vật tày, vật sắc, vật sắc nhọn hoặc vật có cạnh sắc gây ra.

- Theo bệnh án của Bệnh viện Thống Nhất, bệnh nhân vào viện 00 giờ 53 phút ngày 10/9/2019:

+ Ngoài thương tích ở đầu nêu trên.

+ Còn ghi nhận: Đau vai phải, sưng nề, hạn chế cử động, có chụp Xquang không thấy gãy xương, cấp toa về trong ngày. Hiện tại khi đến giám định ghi nhận:

Mt vết tăng sắc tố da phẳng kích thước 1,2x0,6cm tại vai.

Có hình ảnh rách chóp xoay vai phải trên phim chụp cộng hưởng từ khớp vai, than đau khi cử động khớp vai.

Thương tích tại vai do vật tày tác động mạnh gây ra.

- Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 14%”.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích (giám định bổ sung) số 1091.B/TgT.19-20 ngày 03/7/2020 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế Thành phố Hồ Chí Minh, đối với Nguyễn Đình N, kết luận:

“Theo Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 1091/TgT.19 của Nguyễn Đình N sinh năm 1979:

- Thương tích tại đầu có tỉ lệ 02%.

- Thương tích tại vai có tỉ lệ 12%.

- Về vật gây thương tích đã nêu trong Bản kết luận.

- Không có cục gạch nên không có cơ sở trả lời về cục gạch có gây ra được thương tích hay không.

- Đánh bằng tay không, không phù hợp gây thương tích tại vai phải”.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích (giám định bổ sung) số 1091.C/TgT.19-20 ngày 05/4/2021 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế Thành phố Hồ Chí Minh, đối với Nguyễn Đình N, kết luận:

“Thương tích tại vùng vai phải:

+ Đánh bằng tay không vào vùng vai không phù hợp gây ra (đã nêu trong bản kết luận 1091.B/19-20).

+ Vật lộn nhau làm té ngã va đập vùng vai vào vật tày cứng (như ngã xuống đất, …) gây ra được thương tích này”.

Ngày 15/9/2020, ông Nguyễn Đình N có đơn bãi nại, xin rút yêu cầu xử lý hình sự đối với Tạ Văn Q, Nguyễn Văn T.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh, Tạ Văn Q khai nhận: Q có cự cãi và tát vào mặt bà L một cái; khi thấy T và ông N đang đánh nhau vật ngã ra đất, Q cúi xuống nhặt cục gạch ống lên định chọi về phía ông N thì thấy ông N lùi về ngay trước mặt (cách khoảng 50cm) nên Q vung tay đập vào đầu ông N gây thương tích. Lời khai nhận tội của Q phù hợp với lời khai của bị hại Ngọc; người làm chứng bà Q, bà L, ông D; phù hợp kết quả giám định thương tật, kết quả khám nghiệm hiện trường và các chứng cứ có trong hồ sơ.

Đi với Nguyễn Văn T, quá trình điều tra T khai nhận: Khi T và ông N đánh nhau bằng tay chân rồi té ngã thì ông D đến can ngăn T lại; khi ông N đứng dậy lùi ra được vài bước thì bị Q (từ phía sau lưng ông N) cầm cục gạch ống đập vào đầu ông N. Quá trình điều tra T bỏ đi khỏi nơi cư trú, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện đã tạm đình chỉ điều tra, truy nã, khi nào bắt được xử lý sau.

Vật chứng thu giữ: Cục gạch bị cáo Q dùng đánh ông N không thu hồi được.

Tại bản Cáo trạng số 108/CT – VKS ngày 08 tháng 6 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố bị cáo Tạ Văn Q về tội "Cố ý gây thương tích” theo điểm đ Khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa bị cáo Tạ Văn Q đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình giống như lời khai tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đồng thời thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh truy tố bị cáo. Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị hại là ông Nguyễn Đình N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, nội dung đơn thể hiện ông đã nhận tiền bồi thường 10 triệu đồng của bị cáo Q, không yêu cầu gì thêm và có đơn bãi nại cho bị cáo.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố, sau khi nêu tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất của vụ án những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:

Xử phạt bị cáo Tạ Văn Q từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ Khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Chánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, bị cáo trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Tạ Văn Q tại tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra (BL: 121 - 128, 148 – 152, 193 – 194); phù hợp với lời khai của Nguyễn Văn T (BL: 102 -114) phù hợp với lời khai của bị hại ông Nguyễn Đình N (BL 83 – 100, 190 - 192); phù hợp với lời khai của những người làm chứng ông Lê Văn D, bà Vũ Thị Q, bà Phạm Thị L (BL: 67 – 82, 196 – 196) phù hợp với nội dung Cáo trạng truy tố. Vụ án còn được chứng minh qua hoạt động điều tra như biên bản lấy lời khai, kết quả giám định pháp y về thương tích, kết quả khám nghiệm hiện trường, Biên bản nhận dạng cùng các chứng cứ tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 21 giờ ngày 09/9/2019, tại trước nhà không số thuộc tổ 11, ấp 3, xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh bị cáo Tạ Văn Q cùng với đồng phạm Nguyễn Văn T (đã bỏ trốn) đã có hành vi dùng tay chân đánh vào người, dùng gạch đập vào đầu gây thương tích cho ông Nguyễn Đình N với tổng tỉ lệ thương tật là 14% (theo kết luận giám định pháp y về thương tích số 1091/TgT.19 ngày 04/12/2019 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế Thành phố Hồ Chí Minh; kết luận giám định pháp y về thương tích (giám định bổ sung) số 1091.B/TgT.19-20 ngày 03/7/2020 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế Thành phố Hồ Chí Minh và kết luận giám định pháp y về thương tích (giám định bổ sung) số 1091.C/TgT.19-20 ngày 05/4/2021 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế Thành phố Hồ Chí Minh).

[3] Với những tình tiết được chứng minh tại phiên tòa Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Tạ Văn Q đã phạm vào tội "Cố ý gây thương tích" tội phạm được quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); nên Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật.

[4] Tội phạm bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của người khác mà còn gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Tính mạng, sức khỏe của con người là tài sản vô giá được pháp luật bảo vệ, vì vậy pháp luật nghiêm cấm việc xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của bất kỳ ai. Những người có hành vi xâm hại đến sức khỏe, tính mạng của người khác thì tuỳ theo tính chất, mức độ đều phải bị xử lý theo pháp luật. Trong vụ án, dù bị cáo không mâu thuẫn với bị hại nhưng khi thấy T đánh bị hại té ngã xuống đất vừa đứng dậy thì bị cáo vô cớ dùng gạch đánh từ phía sau vào đầu bị hại, điều đó cho thấy bị cáo là người có bản tính hung hăng, côn đồ, ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo là rất kém. Do đó, khi lượng hình Hội đồng xét xử cần có mức án nghiêm thì mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Xét về nhân thân, bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 24/4/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, theo Bản án số 25/2015/HSST. Do đó, khi lượng hình Hội đồng xét xử có lưu ý đến nhân thân của bị cáo mà có mức án phù hợp với nhân thân và hành vi phạm tội của bị cáo.

[6] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Giữa bị cáo và bị hại không có mẫu thuẫn gì trước đó, chỉ vì bênh vực bạn (T đã bỏ trốn) mà bị cáo vô cớ dùng gạch đập vào đầu (T đánh bị hại ngã xuống đất chấn thương vùng vai) gây thương tích cho bị hại với tổng tỉ lệ thương tật là 14%, là thuộc các trường hợp dùng hung khí nguy hiểm, có tính chất côn đồ được quy định tại điểm a, i Khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ Khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xét xử bị cáo.

[7] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng có cân nhắc đến tình tiết bị cáo thành khẩn khai báo và đã tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã bồi thường cho bị hại số tiền 10 triệu đồng, được bị hại làm đơn bãi nại cho bị cáo (BL: 84-85), thực tế bị cáo chỉ gây thương tích cho bị hại 02 %. Hội đồng xét xử giảm cho bị cáo một phần hình phạt được quy định tại điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

Bị cáo đã bị tạm giam từ ngày 09/12/2020 đến nay là 01 năm tháng 06 tháng 29 ngày cũng đủ sức răn đe, giáo dục. Vì vậy, Hội đồng xét xử không cần buộc bị cáo phải tiếp tục chấp hành hình phạt tù có thời hạn mà áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) hạ khung hình phạt; đồng thời áp dụng Khoản 5 Điều 328 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên thời hạn tù bằng với thời gian tạm giam, trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa nếu bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam về một tội phạm khác là phù hợp với chính sách khoan hồng của pháp luật.

[8] Đối với Nguyễn Văn T là đồng phạm với với bị cáo, quá trình điều tra bỏ đi khỏi nơi cư trú, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện đã ra Quyết định truy nã, tạm đình chỉ điều tra, khi nào bắt được xử lý sau, Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[9] Đối với ông Lê Văn D: Quá trình điều tra cho thấy khi bị cáo và T đánh ông N thì ông D là người ngăn cản, không tham gia đánh ông N nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh không xử lý, Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[10] Đối với bà Phạm Thị L bị Q tát vào mặt nhưng không bị thương tích gì, từ chối giám định thương tật, không có yêu cầu xử lý hình sự đối với bị cáo Q, Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[11] Về xử lý vật chứng của vụ án: Không có gì giải quyết.

[12] Về dân sự: Bị hại không yêu cầu gì thêm và đã làm đơn bãi nại cho bị cáo nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[13] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm đ Khoản 2 Điều 134; điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Căn cứ Khoản 2 Điều 136, Khoản 5 Điều 328, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Tạ Văn Q 01 (một) năm 06 (sáu) tháng 29 (hai mươi chín) ngày tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù bằng với thời hạn tạm giam. Trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa nếu bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam về một tội phạm nào khác.

Về án phí: Buộc bị cáo chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, tính kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại tòa được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày tính kể từ ngày nhận Bản án hoặc ngày Bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

107
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 132/2022/HS-ST

Số hiệu:132/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;