Bản án về tội cố ý gây thương tích số 12/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG KHÁNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 12/2022/HS-ST NGÀY 21/01/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 21 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 131/2021/TLST-HS ngày 10 tháng 12 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2022/QĐXXST- HS ngày 10 tháng 12 năm 2021, đối với bị cáo:

TRN HỮU H, sinh năm 1993, tại Đồng Nai;

Nơi cư trú: Khu phố H, phường H, thành phố K, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Phật; Con ông Trần Hữu H, sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1964; Bị cáo là con lớn nhất trong gia đình có 03 anh, em; có vợ Nguyễn Thị Th, sinh năm 1995; có hai người con, lớn nhất sinh năm 2017, nhỏ nhất sinh năm 2020; Tiền sự: Không. Tiền án: Có 01 tiền án:

- Ngày 17/9/2013, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 19/11/2015, bị Tòa án nhân dân thị xã Long Khánh (nay là thành phố Long Khánh) xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Hiện chưa chấp hành xong các hình phạt.

Nhân thân:

- Ngày 21/7/2009, bị Ủy ban nhân dân thị xã Long Khánh (nay là thành phố Long Khánh) áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng. Ngày 11/8/2011, chấp hành xong.

- Ngày 20/10/2017, bị Công an thị xã Long Khánh (nay là thành phố Long Khanh) xử phạt 500.000 đồng về hành vi gây rối trật tự công cộng.

Bị bắt tạm giam từ ngày 14/9/2021 cho đến nay. (Có mặt).

- Bị hại: Anh Nguyễn Văn Ph, sinh năm 1986; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu phố T, phường Tr, thành phố K, tỉnh Đồng Nai. (Có mặt).

- Người làm chứng:

1. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1964; nơi cư trú: Khu phố H, phường H, thành phố K, tỉnh Đồng Nai. (Có mặt).

2. Chị Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1995. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu phố T, phường Tr, thành phố K, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại Phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Hữu H và anh Nguyễn Văn Ph, sinh năm 1986, ngụ Khu phố T, phường Tr, thành phố K, tỉnh Đồng Nai có mối quan hệ bạn bè. Ngày 27/3/2021, H đến nhà anh P hỏi mượn xe mô tô hiệu Piaggio Vespa, biển số 29V4-92xx để đi lại và mượn số tiền 10.000.000 đồng. Anh P đã cho H mượn xe mô tô, số tiền trên và thỏa thuận với nhau xe chỉ cho mượn vài ngày, còn tiền thì cho mượn 01 tháng, không tính lãi. Nhưng sau hơn một tháng, H vẫn chưa trả xe và tiền cho anh P như thỏa thuận. Anh Ph nhiều lần gọi điện thoại nhưng không liên lạc được với H . Đến khoảng 18 giờ 00 ngày 27/4/2021, anh Ph cùng vợ là Nguyễn Thị Thu Thảo, sinh năm 1995, ngụ Khu phố T, phường Tr, thành phố K, tỉnh Đồng Nai đi xe mô tô đến nhà H tại Khu phố H, phường H, thành phố K để đòi lại xe mô tô và số tiền trên. Thấy anh Ph đến, H bước đến gần và nói lớn tiếng: “Q có liên quan gì đến việc tiền bạc đâu mà anh gọi cho Q”. Sau đó, anh Ph và H cãi nhau về việc H chưa trả xe và tiền cho anh Ph và việc anh Ph tự ý đi nói cho người khác biết chuyện H mượn tài sản của anh Ph. H đã dùng chân đạp vào xe của anh Ph làm xe bị nghiêng sang một bên. Do bực tức nên H tiếp tục đạp thêm 01 cái nữa vào đầu gối anh Ph làm xe bị ngã xuống đất nhưng anh Ph cùng vợ con đã kịp thời nhảy ra khỏi xe, không ai bị thương tích gì. Sau đó H chạy vào trong nhà lấy ra 01 con dao tự chế dài 55cm, rồi cầm dao chạy gần đến chỗ anh Ph đâm vào vùng mặt, vùng ngực của anh Ph gây thương tích. Do bị chém bất ngờ nên anh Ph đã lùi lại và đưa tay lên đỡ nên cũng bị thương tích ở tay. Sau đó, anh Ph được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa khu vực Long Khánh.

Theo Giấy chứng nhận thương tích số 732/CN-BV ngày 13/5/2021 của Bệnh viện Đa khoa khu vực Long Khánh thể hiện anh Nguyễn Văn Ph vào viện lúc 18 giờ 47 phút ngày 27/4/2021 có những thương tích sau:

- 01 vết thương vùng gò má (T) hướng chếch cách khóe ngoài mắt (T) 02 cm kích thước 2,4cm x 0,5cm x 01cm.

- Gò má (T) sưng nề, biến dạng ít.

- 01 vết thương mặt sau trong cẳng tay trái 1/3 giữa dài 01cm, kiểm tra mạch quay - trụ rõ, các ngón tay hồng, vận động bình thường.

- Kết quả chụp X-quang xương cẳng tay trái: Mảnh đậm độ cao cạnh mỏm khuỷu trái.

- Kết quả chụp CT-Scanner sọ não: Gãy hàm gò má trái.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0427/TgT ngày 26/5/2021 và Kết luận số 0590/TgT/2021 ngày 06/7/2021 của Trung tâm pháp y Đồng Nai kết luận:

- Tổn thương gãy xương gò má trái không ảnh hưởng chức năng đã được giám định tỷ lệ 09%.

- Sẹo gò má trái đã được giám định tỷ lệ 03%.

- Sẹo 1/3 trên mặt sau cẳng tay trái đã được giám định tỷ lệ 01%.

- Tổn thương gãy (mẻ) xương lồi cầu ngoài xương cánh tay trái được giám định bổ sung. Tỷ lệ 04%.

- Tổn thương gãy chỏm tay trái (nứt một phần chỏm quay trái) được giám định bổ sung. Tỷ lệ 02%.

Kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Nguyễn Văn Ph là 18%, vật gây thương tích là vật sắc.

Về vật chứng: Quá trình điều ra thu giữ của bị cáo 01 (một) con dao bằng sắt dài 55cm (lưỡi dao hình bình hành dài 25cm, phần cán dao dài 30cm).

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường bất cứ khoản thiệt hại nào liên quan đến vụ án.

Tại bản Cáo trạng số 121/CT-VKS-LK ngày 15/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh truy tố bị cáo Trần Hữu Hvề tội: “Cố ý gây thương tích” theo điểm d, đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại Phiên tòa, Kiểm sát viên luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d, đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù. Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử quyết định về vật chứng của vụ án và án phí hình sự sơ thẩm.

Tại Phiên tòa, bị hại không có yêu cầu gì thêm về phần dân sự.

Bị cáo H thừa nhận hành vi phạm tội, không tham gia tranh luận, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo nói lời sau cùng như sau: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về với gia đình và xã hội, chăm sóc cho các con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại Phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Long Khánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại Phiên tòa bị cáo, bị hại, người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Người làm chứng chị Nguyễn Thị Thu Th vng mặt tại Phiên tòa nhưng đã có lời khai trong quá trình điều tra, xét thấy việc vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án căn cứ Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt.

[2] Về tội danh và khung hình phạt: Tại Phiên tòa, bị cáo H thừa nhận như sau: Vào khoảng 18 giờ ngày 27/4/2021, tại Khu phố H, phường H, thành phố K, do có mâu thuẫn về việc giải quyết chuyện mượn tiền và xe, H đã lấy một con dao sắt tự chế dài 55cm chém anh Nguyễn Văn Ph gây thương tích 18%. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu hồi được, các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ đó, có đủ cơ sở kết luận bị cáo đã phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Bị cáo có 02 tiền án, chưa được xóa án tích nên hành vi phạm tội lần này của bị cáo đã phạm vào tình tiết định khung hình phạt là “Tái phạm nguy hiểm” ngoài ra bị cáo sử dụng dao sắc là “Hung khí nguy hiểm”, gây thương tích cho bị hại với tỷ lệ tổn thương cơ thể 18%. Đây là các tình tiết định khung hình phạt theo điểm d, đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017). Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh, khung hình phạt như trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của người khác, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự xã hội tại địa phương. Bị cáo từng bị kết án về nhiều tội danh khác nhau, sau khi chấp hành hình phạt tù xong trở về địa phương bị cáo không tu tâm dưỡng tính trở thành người có ích cho xã hội mà tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo thể hiện sự hung hãn, coi thường pháp luật. Vì vậy, cần có mức án đủ nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi của bị cáo gây ra, cần phải tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân chấp hành nghiêm pháp luật của Nhà nước và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 02 tiền án chưa được xóa án tích. Tuy nhiên, tình tiết này đã là dấu hiệu định khung hình phạt như đã đề cập ở trên, nên không coi đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; được bị hại làm đơn bãi nại về dân sự và xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; bị cáo là lao động chính, vợ của bị cáo bỏ đi, con của bị cáo còn nhỏ. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để đảm bảo tính khoan hồng của pháp luật.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường bất cứ khoản thiệt hại nào liên quan đến vụ án nên không xem xét.

[7] Về vật chứng: 01 (một) con dao sắt dài 55cm, lưỡi dao hình bình hành dài 25cm, phần cán dao dài 30cm, là công cụ phạm tội, nên tịch thu tiêu hủy theo điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án, nên phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về việc đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, đề xuất mức hình phạt phù hợp một phần với nhận định trên nên chấp nhận một phần.

Vì các lẽ trên, Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Điểm d, đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017);

- Điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1.Tuyên bố bị cáo Trần Hữu H phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt bị cáo Trần Hữu H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14 tháng 9 năm 2021.

2. Tịch thu tiêu hủy 01 (một) con dao sắt dài 55cm, lưỡi dao hình bình hành dài 25cm, phần cán dao dài 30cm. (Vật chứng do Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Khánh đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 06-12- 2021).

3. Buộc bị cáo H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 12/2022/HS-ST

Số hiệu:12/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Khánh - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;