TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CÁI RĂNG, TP. CẦN THƠ
BẢN ÁN 115/2021/HSST NGÀY 06/12/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 06 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Cái Răng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 107/2020/HSST ngày 05 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 148/2021/QĐXX ngày 15 tháng 11 2021 đối với bị cáo:
Phạm Trung D (D liều), sinh năm 1975 tại TP. Hồ Chí Minh; Nơi ĐKTT: khu phố 8, phường H B C, TP. Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh; Số CCCD 079075010041 do Cục CSQLHC về TTXH cấp ngày 26/02/2019; nghề nghiệp: xây dựng; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn L (c ) và bà Lê Thị Thu H; vợ Nguyễn Thị L (đã ly hôn), vợ Nguyễn Ngọc Thùy L (đã ly hôn); Có 02 con (lớn SN 2001, nhỏ SN 2012); tiền sự: không; tiền án: không; Bị bắt tạm giam ngày 16/3/2021; Cho bảo lãnh ngày 27/4/2021; Có mặt tại phiên tòa.
* Người bị hại: Bà Nguyễn Thị Bích T, SN 1971 Địa chỉ: P A K, Q. Ninh Kiều, TP Cần Thơ. (Vắng mặt) Công an phường An Khánh xác nhận ngày 14/01/2021 và 17/02/2021: Nguyễn Thị Bích T vắng mặt tại địa phương nơi có ĐKTT: P. A K, Q Ninh Kiều, TP. Cần Thơ (BL 46-47).
* Người làm chứng:
1/ Bà Bùi Thị X, sinh năm 1967 Địa chỉ: KV T T, P. P T, Q Cái Răng, TP. Cần Thơ. (Vắng mặt) Công an phường Phú Thứ xác nhận ngày 22/3/2021: Bùi Thị X đã bán nhà tại địa chỉ KDC 586, KV T T, P. P T, Q Cái Răng, TP. Cần Thơ từ khoảng tháng 11/2019 cho đến nay. Hiện bà X cũng đã chuyển hộ khẩu đi nơi khác không rõ.
2/ Bà Lê Thị Thu H(H trề), SN 1953 Địa chỉ: phường H B C, TP. Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh. (Có đơn đề ngày 05/11/2021 xin xét xử vắng mặt)
3/ Bà Bùi Thị K, SN 1963 Địa chỉ: ấp P T, xã T X, huyện Thới Lai, TP. Cần Thơ. (Vắng mặt)
4/ Ông Ngô Quốc V, SN 1973 Địa chỉ: KV T P, P. P T, Cái Răng, TP. Cần Thơ. (Có đơn đề ngày 30/10/2021 xin xét xử vắng mặt)
5/ Bà Trịnh Thị T, SN 1972 Địa chỉ: P. P T, Cái Răng, TP. Cần Thơ. (Có đơn đề ngày 02/11/2021 xin xét xử vắng mặt)
6/ Ông Nguyễn Văn Ngọc A, SN 1994 Địa chỉ: Q B T, thành phố Hồ Chí Minh. (Có đơn đề ngày 30/10/2021 xin xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Vào ngày 06/10/2018 Phạm Trung D cùng Nguyễn Văn Ngọc A đưa bà Lê Thị Thu H(mẹ D) từ thành phố Hồ Chí Minh đến thành phố Cần Thơ để gặp bà Nguyễn Thị Bích T giải quyết việc bà T nợ tiền bà H. Bà H hẹn gặp bà T vào trưa ngày 07/10/2018 tại nhà bà Bùi Thị X, địa chỉ: E3-56, đường số 5, khu dân cư 586, phường Phú Thứ, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ. Khoảng 10 giờ ngày 07/10/2018 bà H gặp bà T và yêu cầu bà T trả tiền nợ nhưng bà T nói chưa có khả năng, từ từ sẽ trả. Ngay lúc này Phạm Trung D từ bên ngoài đi vào cầm một khúc cây (không rõ chất liệu) dài khoảng 40cm-50cm đánh nhiều cái vào vùng đầu, mặt và trên người bà Thủy. Cùng lúc bà X từ trên lầu đi xuống chạy lại can ngăn và kéo D ra. Sau đó D và bà H đi về TP Hồ Chí Minh còn bà T thì đi cấp cứu và điều trị tại bệnh viện đa khoa Hoàn Mỹ Cửu Long. Ngày 08/10/2018 bà T có đơn yêu cầu khởi tố đối với Phạm Trung D về hành vi Cố ý gây thương tích (BL 154).
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 177/TgT ngày 24/10/2018 của Trung tâm pháp y – Sở y tế thành phố Cần Thơ kết luận dấu hiệu chính qua giám định:
- Đa vết thương phần mềm vùng trán phải, má phải, cánh tay phải đã được điều trị khâu vết thương, kháng sinh, giảm đau. Hiện tại các vết thương đã lành, không ảnh hưởng thẩm mỹ và chức năng.
- Vết thương phần mềm vùng cổ, gáy đã được điều trị nội khoa ổn định. Hiện tại không có vết tích trên da.
- Tỷ lệ thương tích cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 04%.
- Vết thương do vật tày, cứng gây nên.
Tại bản kết luận giám định số 4007/C09B ngày 30/8/2019 của Phân viện Khoa học hình sự Bộ công an tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận: các dấu vết thương tích của bà Nguyễn Thị Bích T thể hiện trong hồ sơ gửi giám định là do vật tày, vật tày có cạnh tác động tạo ra. Vết thương trán phải, gò má phải là do vật tày có cạnh tác động tạo ra. Các vết bầm tụ máu cổ, gáy, cánh tay phải do tiếp xúc va đập với vật tày tạo ra. Nếu dùng tay không tác động tạo ra được các vết bầm tụ máu, không tạo ra được các vết rách da (BL 24-26).
Tại cơ quan công an ban đầu Phạm Trung D không thừa nhận dùng hung khí gây thương tích cho bà T. Tuy nhiên quá trình làm việc sau đó bị can đã trình bày lại nội dung sự việc như sau: Vào ngày 06/10/2018 bà H đi Cần Thơ tìm bà T để đòi nợ, do không yên tâm nên D rủ Ngọc A (tên thường gọi là Trác) đi cùng bà H, chủ yếu lo cho an toàn của bà H chứ D không tham gia vào việc đòi nợ. Sáng ngày 07/10/2018 bà H hẹn gặp bà T tại nhà bà Xưa để nói chuyện. D đi cùng nhưng không vào mà ngồi đợi ở ngoài xe cùng Trác (xe đậu cách nhà bà Xưa khoảng 100 mét), đợi lâu quá không thấy bà H ra nên D xuống xe một mình đi bộ đến nhà bà Xưa. Trên đường đi D phát hiện 01 khúc cây gỗ hình trụ tròn, màu đen dài khoảng 30 cm, đường kính 03 cm nằm trên mặt đường nên cầm theo. Khi vào nhà bà Xưa thì thấy bà H và bà T đang ngồi nói chuyện ở ngoài phòng khách. D hỏi bà T “tiền bà gạt mẹ tôi giờ tính sao?” bà T không trả lời nên D dùng tay trái cầm khúc cây nhặt được trước đó đánh vào vào vùng vai bà T nhưng không xác định chính xác trúng vị trí nào, chỉ nhớ đánh khoảng 02-03 cái thì bà Xưa từ trên lầu đi xuống cùng bà H can ngăn, sau đó D bỏ về cùng với bà H. Trên đường đi D quăng bỏ khúc cây (BL 120-130).
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Thị Bích T không yêu cầu bị can bồi thường (BL 91).
Tại cáo trạng số: 59/CT-VKS ngày 27/4/2021 Viện kiểm sát nhân dân quận Cái Răng đã truy tố Phạm Trung D về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố, xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa hôm nay, lời thừa nhận của bị cáo là phù hợp với lời khai của bị hại và diễn biến của quá trình xảy ra vụ án, phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án. Cụ thể là do bực tức việc bị hại thiếu tiền mà không trả cho bà Lê Thị Thu H, là mẹ của mình nên bị cáo đã dùng khúc cây (gỗ) đánh vào đầu và cổ của bị hại. Hậu quả là bị hại Nguyễn Thị Bích T bị gây thương tích với tỷ lệ tổn hại sức khỏe là 4%. Thương tích này là do bị cáo Phạm Trung D đã trực tiếp dùng khúc cây (gỗ) đánh trúng người của bị hại.
[3] Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự; với các tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 6 (sáu) tháng đến 9 (chín) tháng tù.
[4] Hội đồng xét xử nhận thấy, bị cáo Phạm Trung D đã có hành vi dùng khúc cây (gỗ) là hung khí nguy hiểm đánh vào người của bị hại gây thương tích với tỷ lệ tổn hại sức khỏe là 4%, đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe con người, đồng thời còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Trong khi Nhà nước và nhân dân ta đang cố gắng xây dựng một xã hội phát triển văn minh, thì bị cáo lại giải quyết vấn đề bằng bạo lực. Chỉ vì bực tức việc bị hại thiếu tiền bà Lê Thị Thu H là mẹ của bị cáo không trả nên bị cáo đánh gây thương tích cho bị hại. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Cố ý gây thương tích theo qui định tại theo điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự. Cho nên việc truy tố của Viện kiểm sát đối với bị cáo là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.
[5] Cần phải xử lý nghiêm khắc đối với bị cáo, để răn đe những ai có hành vi tương tự và cũng để phòng ngừa chung. Có như vậy mới góp phần giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật trong nhân dân. Tuy nhiên Hội đồng xét xử cũng có cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo khi lượng hình. Nhân thân bị cáo mặc dù có nhiều tiền án nhưng đã được xóa án tích và bị xử phạt hành chính nhưng đã hết thời hiệu xem là có tiền sự. Cho nên bị cáo được xác định không có tiền án, tiền sự là đúng theo qui định. Trong quá trình điều tra, giai đoạn đầu bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội gây khó khăn ít nhiều cho cơ quan tố tụng nhưng về sau đã nhận thức hành vi của mình, tỏ ra ăn năn hối lỗi mà khai báo thành khẩn để hỗ trợ cơ quan điều tra sớm kết thúc vụ án. Bị cáo là lao động chính nuôi mẹ già và nuôi con nhỏ (theo Quyết định số 1423 ngày 28/11/2018 của TAND TP Hồ Chí Minh công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự). Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng theo Sổ hộ khẩu số 31150101026 do Công an quận Thủ Đức cấp ngày 12/11/2013 (BL 141a). Ngoài ra bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả cho bị hại theo Biên lai thu tiền số 0008053 ngày 15/11/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Cái Răng. Căn cứ các điều kiện qui định tại Nghị quyết 02/2018 ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng xét xử thấy không cần thiết cách ly bị cáo khỏi xã hội mà cân nhắc áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự quyết định xử phạt bị cáo hình phạt tù có điều kiện cũng đủ tác dụng răn đe và giáo dục đối với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra bị hại Nguyễn Thị Bích T chỉ yêu cầu xử lý hình sự đối với hành vi gây thương tích cho mình của bị cáo, không yêu cầu bồi thường dân sự (BL 82-83, 84-85). Nhưng bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả cho bị hại số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) theo Biên lai thu tiền số 0008053 ngày 15/11/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Cái Răng. Xét đây là tự nguyện thỏa thuận của đương sự không trái pháp luật và đạo đức xã hội nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố Phạm Trung D phạm tội “Cố ý gây thương tích”
Áp dụng: điểm a, i khoản 1 Điều 134, b, s khoản 1 và 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Phạm Trung D 6 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 06/12/2021.
Giao cho Ủy ban nhân dân phường Hiệp Bình Chánh, TP. Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh quản lý, giáo dục Phạm Trung D trong thời gian thử thách của án treo. Trường hợp người được hưởng án treo thay nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Thị Bích T được nhận số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) do bị cáo đã khắc phục theo Biên lai thu tiền số 0008053 ngày 15/11/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Cái Răng.
Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo để xin xét xử phúc thẩm theo qui định của pháp luật
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 115/2021/HSST
Số hiệu: | 115/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Cái Răng - Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/12/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về