Bản án về tội cố ý gây thương tích số 10/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHƯỚC, TỈNH TIỀN GIANG

 BẢN ÁN 10/2023/HS-ST NGÀY 23/03/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong các ngày 21 tháng 3 và ngày 23 tháng 3 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 08/2023/TLST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2023/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 02 năm 2023 đối với:

* Bị cáo: Phạm Hữu L, sinh ngày 06 tháng 9 năm 1972, tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Trú tại: khu phố 1, thị trấn M, huyện T, tỉnh Tiền Giang; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 12/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Hữu C1, sinh năm 1943 và bà Trần Thị Thu N, sinh năm 1943; bị cáo có vợ thứ 1 là chị Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1968 – đã ly hôn năm 2008 – cả hai có 03 người con chung sinh lần lược các năm 1994, 1996, 2006; bị cáo có vợ thứ 2 là chị Nguyễn Thị Cẩm G, sinh năm 1988 – đã ly hôn năm 2022 – cả hai có 03 người con chung sinh lần lượt các năm 2011, 2013, 2016;

Tiền sự: Không; tiền án: Không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa) - Bị hại: Bà Võ Thị Ngọc H, sinh ngày 15/9/1964 (có mặt).

Trú tại: khu phố 1, thị trấn M, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

- Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn C2, sinh năm 1965 (vắng mặt).

Trú tại: ấp T, xã P, thị xã C, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Hữu L và bà Võ Thị Ngọc H, sinh năm 1964, là hàng xóm nhà sát bên nhau, thuộc khu phố 1, thị trấn M, huyện T, tỉnh Tiền Giang. Nhà Phạm Hữu L có 03 con gái nhỏ sinh năm 2011, 2014 và 2016; Nhà bà Ngọc H có nuôi một con chó thường 06 năm tuổi, nặng khoảng 14kg. Vào ngày 17/12/2021, con chó nêu trên của bà Ngọc H đã cắn vào tay của con Hữu L tên Phạm Thiên K, sinh năm 2016, vụ việc được trình báo chính quyền địa phương giải quyết theo quy định, nhưng chưa giải quyết xong. Kể từ đó, giữa Hữu L và bà Ngọc H phát sinh mâu thuẫn về việc bà Ngọc H nuôi chó dữ, có nguy cơ đe dọa đến các con của Hữu L.

Vào khoảng 06 giờ 15 phút ngày 21/09/2022, Hữu L mở cửa nhà đưa bé Thiên K đi học, thì con chó nêu trên của bà Ngọc H chưa được khớp mỏm (miệng) chạy lại liếm chân bé Thiên K, làm bé hoảng sợ. Thấy con hoảng sợ, Hữu L bực tức chửi bà Ngọc H. Sau đó, cả bà Ngọc H và Hữu L mâu thuẫn, cự cãi, nói lời thô tục với nhau. Lúc này, Hữu L lấy một đoạn cây gỗ (khung bao cửa) dài 164cm, đi đến vị trí bà Ngọc H đứng, cách khoảng 02 mét, giơ lên cao đánh từ trên xuống 02 cái trúng tay trái và vai phải của bà Ngọc H. Lúc này, ông Nguyễn Văn C2, sinh năm 1966, can ngăn nên Hữu L cầm đoạn cây gỗ bỏ đi về nhà. Bà H được đưa đến Trung tâm y tế huyện Tân Phước điều trị thương tích.

Giấy chứng nhận thương tích số 19/CN ngày 03/10/2022 của Trung tâm Y tế huyện Tân Phước, chứng nhận thương tích của bà Võ Thị Ngọc H như sau: Vào khám ngày 21/9/2022, ra về ngày 21/9/2022, chẩn đoán: Tổn thương nông tác động nhiều vùng cơ thể + Chấn động vai và cánh tay trái + Gãy kín 1/3 giữa thân xương trụ trái do tai nạn xã hội; Tình trạng thương tích lúc ra về: Bệnh tỉnh, tiếp xúc tốt; Vai trái đau, cử động được; Tay trái đau, cử động hạn chế; Được bó bột cẳng tay trái. Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 303/2022/TgT ngày 11/10/2022 của Trung tâm Pháp y Tiền Giang, kết luận thương tích của bà Võ Thị Ngọc H như sau: Dấu hiệu chính qua giám định: Gãy 1/3 xương trụ trái; Kết luận: Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 08%; Do vật tầy gây nên.

Bà Võ Thị Ngọc H có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Phạm Hữu L hoàn toàn thừa nhận hành vi của mình.

- Vật chứng, tài liệu và tài sản tạm giữ và xử lý:

+ 01 (một) khúc gỗ (đoạn gỗ), có đặc điểm: Tổng chiều dài 164cm;

Ngang 7,3cm; Dày 2,8cm; Trên thân cây có đóng 06 (sáu) cây đinh; Ở hai đầu cây có gắn 02 bản bằng kim loại; 02 bên khúc cây có tổng cộng 04 khoảng trống (01 bên 01 khoảng, bên còn lại 03 khoảng) và có 01 đường kẻ dọc; 02 đầu cây không bằng nhau, 01 đầu bị sướt, 01 bên bị mục; Khúc cây có màu xanh; Được niêm phong theo quy định. Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước đã ra quyết định chuyển đoạn gỗ này đến Chi cục Thi hành án Dân sự huyện để quản lý theo quy định.

- Phần dân sự: Bà Võ Thị Ngọc H có đơn yêu cầu Phạm Hữu L bồi thường tổng số tiền là 85.000.000 đồng (Tám mươi lăm triệu đồng). Bị cáo Phạm Hữu L chỉ đồng ý bồi thường và nộp số tiền 5.000.000 đồng, phần còn lại đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định. Bà H chưa nhận tiền bồi thường, chờ Tòa án giải quyết theo quy định. Số tiền bị cáo nộp, Viện kiểm sát đã chuyển đến Chi cục Thi hành án Dân sự huyện để quản lý theo quy định.

* Người bị hại: Bà Võ Thị Ngọc H khai: Vào khoảng 06 giờ 15 phút ngày 21/09/2022, ông Nguyễn Văn C2 đến nhà bà H để đi tưới khóm thuê cho gia đình bà, khi đến nhà bà ông C2 cùng chồng bà mở cửa rào để khiêng máy tưới khóm ra xe thì con chó của bà chưa được khớp mỏm (miệng) chạy lại hửi chân, quắt đuôi mừng bị cáo L, thì bị cáo dùng những lời thô tục chửi bà. Sau đó, bà cũng có chửi lại bị cáo. Một lúc sau, bị cáo lấy một đoạn cây gỗ dài khoảng 02m, đi đến vị trí bà đứng, cách khoảng 1,5m, giơ lên cao đánh từ trên xuống 02 cái trúng tay trái và vai phải của bà. Lúc này, ông Nguyễn Văn C2 can ngăn nên bị cáo cầm đoạn cây gỗ bỏ đi về nhà. Bà được đưa đến Trung tâm y tế huyện Tân Phước điều trị thương tích. Tại phiên tòa hôm nay, bà yêu cầu xử lý nghiêm trách nhiệm hình sự đối với hành vi của bị cáo L.

Về dân sự bà yêu cầu bị cáo L bồi thường cho bà số tiền như sau:

+ Lúc bị cáo đánh bà làm gãy hai chiếc vòng xi-men vàng 18 kara, mỗi chiếc là 05 phân 06 ly, hai chiếc là 1,1 chỉ vàng 18 kara với số tiền là 4.000.000 đồng.

+ Chi phí điều trị thương tích là 16.000.000 đồng.

+ Chi phí mất thu nhập do điều trị vết thương là 30.000.000 đồng.

+ Yêu cầu bồi thường do tổn thất tinh thần là 15.000.000 đồng.

+ Yêu cầu bồi thường do mất sức lao động là 20.000.000 đồng. Tổng cộng bà H yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 85.000.000 đồng.

Quá trình thụ lý giải quyết vụ án, ngày 16/3/2023 bà H có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại sửa đổi bổ sung, bà H yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại gồm:

- Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm hại 30.618.190 đồng, gồm:

+ Chi phí điều trị 5.418.190 đồng (tiền xe nhập viện, vận chuyển, tái khám 1.700.000 đồng; tiền thuốc và chi phí điều trị 3.718.190 đồng) + Tiền thu nhập thực tế bị mất của bà H (từ ngày 21/9/2022 đến ngày 13/12/2022 là 84 ngày x 300.000đồng/ngày = 25.200.000 đồng.

- Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần 10 tháng lương tối thiểu là 14.900.000 đồng.

- Bồi thường hai chiếc vòng xi-men là 1 chỉ 1,4 ly vàng 18 kara giá 3.663.000 đồng và tiền công 140.000 đồng. Tổng số tiền là 3.803.000 đồng.

Tổng cộng các khoản số tiền là 49.303.000 đồng. Yêu cầu trả một lần khi án có hiệu lực pháp luật.

- Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn C2 vắng mặt có lời khai: Vào khoảng 06 giờ 15 phút ngày 21/09/2022, ông có đến nhà bà H để đi tưới khóm thuê cho gia đình bà H, khi đến nhà bà H ông cùng chồng bà H khiêng máy tưới khóm ra xe để ràng. Lúc này, cửa rào nhà bà H mở, con chó nhà bà H có chạy ra khỏi cửa nhà bà H không thì ông không để ý. Nhưng giữa bà H và bị cáo có xảy ra cự cải qua lại, nói lời thô tục với nhau được một lúc thì bị cáo vô nhà còn bà H thì nói sẽ đi báo Công an về việc bị, bị cáo xúc phạm, còn ông tiếp tục ràng máy tưới khóm trên xe mô tô để chở vào ruộng khóm. Khi ông nhìn lên thì nhìn thấy bị cáo lấy một đoạn cây gỗ (khung bao cửa) dài 02m, đi đến vị trí bà Ngọc H đứng, cách khoảng 02 mét. Mặc cho ông can ngăn nhưng bị cáo vẫn cầm đoạn cây gỗ, cầm 02 tay giơ lên cao đánh từ trên xuống 02 cái trúng tay trái và vai phải của bà Ngọc H. Lúc này, do ông đang vịnh cái máy tưới khóm trên xe nên không thể can ngăn được, chỉ dùng lời nói can ngăn nên bị cáo cầm đoạn cây gỗ bỏ đi về nhà. Bà H được đưa đến Trung tâm y tế huyện Tân Phước điều trị thương tích.

* Tại phiên tòa hôm nay, - Viện kiểm sát huyện Tân Phước phát biểu:

Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu và phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo. Khẳng định, việc truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng số 07/CT-VKSTP ngày 17/01/2023 là đúng người, đúng tội không có gì thay đổi và đề nghị Hội đồng xét xử.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, 65 Bộ luật Hình sự. Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự về án treo.

- Xử phạt bị cáo Phạm Hữu L từ 06 tháng đến 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng đến 18 tháng.

+ Về trách nhiệm dân sự:

Ghi nhận bị cáo đã tự nguyện bồi thường số tiền thiệt hại tài sản 5.000.000 đồng cho bà H.

Chi phí đi lại và tiền thuốc bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bị hại, nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận buộc bị cáo bồi thường cho bị hại tiền mất thu nhập cho bị hại 1,5 tháng là 13.500.000 đồng và tiền tổn thất tinh thần bằng 1,5 tháng lương tối thiểu là 2.235.000 đồng.

Không chấp nhận việc bị hại yêu cầu bồi thường thiệt hại 2 chiếc vòng ximent bị mất.

+ Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 (một) khúc gỗ (đoạn gỗ), có đặc điểm: Tổng chiều dài 164cm; Ngang 7,3cm; Dày 2,8cm; Trên thân cây có đóng 06 (sáu) cây đinh; Ở hai đầu cây có gắn 02 bản bằng kim loại; 02 bên khúc cây có tổng cộng 04 khoảng trống (01 bên 01 khoảng, bên còn lại 03 khoảng) và có 01 đường kẻ dọc; 02 đầu cây không bằng nhau, 01 đầu bị sướt, 01 bên bị mục; Khúc cây có màu xanh (Được niêm phong theo quy định).

- Bị cáo thống nhất với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận gì.

- Người bị hại không thống nhất với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xử lý bị cáo theo quy định pháp luật và giải quyết bồi thường thiệt hại toàn bộ theo yêu cầu trên của bị hại.

- Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo hối hận về hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Tại phiên tòa, người làm chứng ông Nguyễn Văn C2 vắng mặt. Xét việc ông C2 đã có lời khai đầy đủ tại hồ sơ. Đồng thời, Tòa án cũng đã tống đạt hợp lệ. Việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông C2.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện Tân Phước, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại và người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp quy định pháp luật.

[3] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, bị cáo Phạm Hữu L đã thừa nhận:

[3.1] Nguyên nhân xảy ra vụ án xuất phát từ mâu thuẫn giữa bị cáo Phạm Hữu L và bị hại bà Võ Thị Ngọc H về việc bà H nuôi súc vật (chó) để cắn hai con gái của bị cáo Lai là cháu Phạm Gia H và cháu Phạm Thiên K kéo dài không được giải quyết. Ngày 15/12/2022, bị cáo L có đơn yêu cầu xử lý hành vi của bà H nuôi súc vật (chó) gây nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng của người khác, nhất là trẻ em, kèm theo đơn là ý kiến phản ánh kèm theo 10 người dân thuộc khu phố 1, thị trấn Mỹ Phước. Bị cáo L và quần chúng nhân dân phản ánh. Vào khoảng 06 giờ 15 phút ngày 21/9/2022, tại Khu phố 1, thị trấn Mỹ Phước, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang. Bị cáo L mở cửa nhà đưa bé Thiên K đi học, thì con chó nêu trên của bà Ngọc H chưa được khớp mỏm (miệng) chạy lại liếm chân bé Thiên K và vẫy đuôi mừng bị cáo, làm bé Thiên K hoảng sợ. Thấy con hoảng sợ, Hữu L bực tức chửi bà Ngọc H. Sau đó, cả bà Ngọc H và Hữu L mâu thuẫn, cự cãi, nói lời thô tục với nhau. Lúc này, Hữu L lấy một đoạn cây gỗ (khung bao cửa) dài 164cm, đi đến vị trí bà Ngọc H đứng, cách khoảng 02 mét, giơ lên cao đánh từ trên xuống 02 cái trúng tay trái và vai phải của bà Ngọc H. Lúc này, ông Nguyễn Văn C2, can ngăn nên Hữu L cầm đoạn cây gỗ bỏ đi về nhà. Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 303/2022/TgT ngày 11/10/2022 của Trung tâm Pháp y Tiền Giang, kết luận thương tích của bà Võ Thị Ngọc H tại thời điểm giám định là 08%. Bà H có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Do đó, Phạm Hữu L phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3.2] Lời khai của bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng, lời khai người bị hại, người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, cùng các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận bị cáo Phạm Hữu L phạm tội Cố ý gây thương tích. Tỷ lệ tổn thương cơ thể của người bị hại là 08%, nhưng hành vi của bị cáo dùng hung khí nguy hiểm được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” 1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thị bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người”.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước truy tố đối với bị cáo là có cơ sở và đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, bị cáo nhận thức được việc dùng hung khí nguy hiểm xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của người khác là vi phạm pháp luật. Khi sự việc cự cãi xảy ra bị cáo đã có người làm chứng khuyên ngăn, ngăn cản. Lẽ ra, bị cáo có đủ thời gian suy nghĩ sẽ không thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, với tính chất hung hăn bị cáo đã dùng 01 khúc gỗ mà trên thân cây có đóng 06 (sáu) cây đinh để đánh bà Võ Thị Ngọc H gây thương tích 08%. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang, bất bình trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, cần phải xử lý bị cáo mức án nghiêm tương xứng với tính chất, mực độ, hành vi phạm tội của bị cáo.

[5]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo:

- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo L không có tình tiết tăng nặng.

- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo L thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo tự nguyện bồi thường khắc phục một phần thiệt hại cho bị hại; Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, i, s khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo sức khỏe không tốt bị bệnh Gout, thoái hóa đa khớp, đái tháo đường, hoàn cảnh khó khăn đây là tình tiết quy định khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

Với tình tiết nêu trên, Hội đồng xét xử cân nhắc khi lượng hình để tuyên xử mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo. Xét bị cáo có nhân thân tốt, có 03 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 và 01 tình tiết ở khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bị cáo đang kinh doanh buôn bán và có nơi cư trú rõ ràng; bị cáo có khả năng tự cải tạo và việc cho hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Nhận thấy, không cần thiết phải buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù tại cơ sở giam giữ, cũng đủ giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội. Đồng thời, nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử thống nhất không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng của vụ án:

- 01 (một) khúc gỗ (đoạn gỗ), có đặc điểm: Tổng chiều dài 164cm; Ngang 7,3cm; Dày 2,8cm; Trên thân cây có đóng 06 (sáu) cây đinh; Ở hai đầu cây có gắn 02 bản bằng kim loại; 02 bên khúc cây có tổng cộng 04 khoảng trống (01 bên 01 khoảng, bên còn lại 03 khoảng) và có 01 đường kẻ dọc; 02 đầu cây không bằng nhau, 01 đầu bị sướt, 01 bên bị mục; Khúc cây có màu xanh (Được niêm phong theo quy định). Đây là hung khí mà bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội và không còn giá trị sử dụng, nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định pháp luật.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra bị hại bà H yêu cầu bị cáo Lai bồi thường tổng số tiền 85.000.000 đồng. Tại phiên tòa, bị hại thay đổi yêu cầu về trách nhiệm dân sự tổng cộng số tiền 49.303.000 đồng cụ thể gồm các khoản như sau:

[8.1] Yêu cầu bồi thường giá trị 02 chiếc vòng xi-men vàng 18 kara, hai chiếc là 1 chỉ 1,4 ly vàng 18 kara với số tiền là 3.803.000 đồng. Bị hại xác định sau khi bị đánh gây thương tích, bị hại phát hiện 02 chiếc vòng xi-men bị gãy mất. Bị hại cố tìm xung quanh khu vực bị đánh nhưng không tìm được, chỉ tìm được một phần nhỏ còn lại của 01 chiếc vòng vàng 18 kara tại hiện trường. Tuy nhiên vào ngày 28/9/2022 Cơ quan CSĐT Công an huyện Tân Phước đã tổ chức đi tìm nhưng không tìm thấy 02 chiếc vòng bị gãy mất như thông tin bị hại cung cấp, cũng như trong lời khai của bị cáo, người làm chứng đều xác định trong quá trình bị cáo đánh bị hại thì không thấy 02 chiếc vòng bị gãy. Mặt khác, bà H không kịp thời khai báo ngay sau khi bị đánh, cho đến khi bà H băng bột tay xong về đến nhà thì bà H mới khai báo bị mất 2 chiếc vòng trên. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như chứng cứ có trong hồ sơ vụ án không chứng minh được khi bị cáo đánh bị hại làm gãy mất 02 chiếc vòng xi-men vàng 18 kara, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu này của bị hại.

[8.2] Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm hại là chi phí điều trị 5.418.190 đồng (tiền xe nhập viện, vận chuyển, tái khám 1.700.000 đồng; tiền thuốc và chi phí điều trị 3.718.190 đồng) Xét thấy, tiền thuốc và chi phí điều trị 3.718.190 đồng, bà H có hóa đơn chứng từ đầy đủ chứng minh có điều trị từ ngày 21/9/2022 đến ngày 29/11/2022; tiền chi phí đi lại có xác nhận của người vận chuyển. Bị cáo đồng ý bồi thường 2 khoản tiền trên, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8.3] Tiền thu nhập thực tế bị mất của bà H (từ ngày 21/9/2022 đến ngày 13/12/2022 là 84 ngày x 300.000đồng/ngày = 25.200.000 đồng. Xét thấy, việc bà H bị gãy xương tay phải bó bột, nên thu nhập thực tế của bà H bị mất là có.

Bà H có cung cấp tờ xác nhận thu nhập cá nhận của bà H 300.000 đồng/ngày, có xác nhận của chính quyền địa phương. Tuy nhiên, việc bà H yêu cầu số ngày mất thu nhập 84 ngày là chưa hợp lý. Bởi lẽ, bà H khai nhận bó bột tay ngày 21/9/2022 đến 1 tháng sau, tức ngày 21/10/2022 thì tháo bột. Nhận thấy, thời gian điều trị 1 tháng và phục hồi sao khi tháo bột 15 ngày thì bà H lao động được. Như vậy, tổng số ngày bà H bị mất thu nhập là 45 ngày x 300.000 đồng = 13.500.000 đồng là phù hợp.

[8.4] Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần 10 tháng lương tối thiểu là 14.900.000 đồng. Xét thấy, theo quy định tại khoản 2 Điều 590 Bộ luật Dân sự thì mức bồi thường tối đa không quá 50 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định. Sự việc xảy ra làm cho bà H mất ngủ, cảm thấy bị xúc phạm, xấu hổ với mọi người, nên bà Hoa bị tổn thất tinh thần là có. Tuy nhiên, việc bà yêu cầu bồi thường 10 tháng lương cơ sở là chưa phù hợp. Hội đồng xét xử xét chỉ chấp nhận 1,5 tháng lương cơ sở bằng với thời gian bà H điều trị và phục hồi sức khỏe số tiền 2.235.000 đồng (1,5 tháng x 1.490.000 đồng) là phù hợp thực tế và quy định pháp luật.

Do đó, Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận một phần yêu cầu về trách nhiệm dân sự của bị hại. Như vậy, tổng số tiền mà bị cáo phải bồi thường cho bị hại là 21.153.190 đồng. Bị cáo Phạm Hữu L đã nộp 5.000.000 đồng tiền bồi thường cho bị hại hiện do Chi cục Thi hành án Dân sự huyện để quản lý theo quy định. Thực hiện khi án có hiệu lực pháp luật.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. Do bị hại không có đơn đề nghị được miễn giảm án phí. Vì vậy, bị hại phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền bồi thường không được chấp nhận theo quy định pháp luật.

[10] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với nhận định trên của Hội đồng xét xử nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Hữu L phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

1/ Về hình phạt:

- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các Điều 38, 50, 65, 90, 91 Bộ luật Hình sự;

- Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự về án treo; Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự về án treo.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Hữu L 01 (một) năm tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 24 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Phạm Hữu L cho Ủy ban nhân dân thị trấn Mỹ Phước, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo Phạm Hữu L thay đổi nơi cư trú trong thời gian thử thách thì việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách được thực hiện theo Điều 68, 92 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Điều 87 của Luật thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

2. Về trách nhiệm dân sự.

- Áp dụng Điều 48 của Bộ luật Hình sự và điều 584, 585, 586, 588, 590, của Bộ luật Dân sự.

Chấp nhận một phần yêu cầu bồi thường thiệt hại của bị hại bà Võ Thị Ngọc H.

Buộc bị cáo Phạm Hữu L có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho bà Võ Thị Ngọc H số tiền 21.153.190 đồng. Thực hiện khi án có hiệu lực pháp luật.

Bị cáo Phạm Hữu L đã nộp 5.000.000 đồng tiền bồi thường khắc phục hậu quả cho bà H hiện do Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Tân Phước quản lý, nên được trừ vào số tiền 21.153.190 đồng.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án không thực hiện thì hàng tháng còn phải chịu thêm tiền lãi chậm trả theo khoản 2 Điều 357, 468 Bộ luật Dân sự.

3. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 47 Bộ luật Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) khúc gỗ (đoạn gỗ), có đặc điểm: Chiều dài 164cm; Ngang 7,3cm; Dày 2,8cm; Trên thân cây có đóng 06 (sáu) cây đinh; Ở hai đầu cây có gắn 02 bản bằng kim loại; 02 bên khúc cây có tổng cộng 04 khoảng trống (01 bên 01 khoảng, bên còn lại 03 khoảng) và có 01 đường kẻ dọc;

02 đầu cây không bằng nhau, 01 đầu bị sướt, 01 bên bị mục; Khúc cây có màu xanh. (Được niêm phong theo quy định).

Vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang đang tạm giữ. Thực hiện khi án có hiệu lực pháp luật.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phạm Hữu L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 1.056.759 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bị hại bà H phải chịu 1.407.490 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo Phạm Hữu L; Bị hại bà Võ Thị Ngọc H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

65
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 10/2023/HS-ST

Số hiệu:10/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phước - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;