Bản án về tội cố ý gây thương tích số 09/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 09/2022/HS-PT NGÀY 22/02/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 22 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bình Thuận, xét xử công khai, phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 02/2022/TLPT-HS, ngày 07 tháng 01 năm 2022 do Bản án hình sự sơ thẩm số 103/2021/HS-ST, ngày 23 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân thị xã La Gi bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2022/QĐXXPT-HS ngày 07 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: MAI BÁ T, sinh năm: 1991; tại: Phú Yên; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: thôn P, xã T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: buôn bán; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: phật; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Mai Bá Đ, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1970; Vợ: Đinh Thị Ngọc H, sinh năm 1999; Vợ chồng có 02 người con, lớn sinh năm 2018, nhỏ sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Bà Trần Thị Ngọc K, sinh năm 1964. Nơi cư trú: khu phố 04, phường T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận (vắng mặt).

Người kháng cáo: Bị cáo kháng cáo xin hưởng án treo.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 16/02/2021, bà Nguyễn Thị D (là chủ đại lý vé số Mỹ Cúc) đến nhà bà Trần Thị Ngọc K (là chủ đại lý vé số Kim Cảnh) ở khu phố 4, phường T, thị xã L, để gặp bà K liên quan đến sự việc ông Hà Hồng C trước đây lấy vé số tại đại lý của bà D bán và còn nợ bà số tiền 3.000.000 đồng nhưng nay lại chuyển qua lấy vé số tại đại lý của bà K bán và hiện đang còn nợ tiền bà D chưa trả. Mục đích bà D gặp bà K để đề nghị bà K không giao vé số cho ông C bán nữa, để ông C tiếp tục bán vé số cho bà và trả nợ. Tuy nhiên, do không liên quan đến sự việc này và cũng đang là thời điểm Tết (mùng 5 Tết) nên bà K không đồng ý nói chuyện và đuổi bà D về. Sau khi rời khỏi nhà bà K, bà D đi đến nhà ông bà thông gia tại phường P thì gặp con trai là Mai Bá T đang nhậu ở đây, bà D có kể lại sự việc vừa xảy ra với bà K. Sau khi nghe xong, T đem theo 01 cây gậy ba khúc (có đặc điểm: bằng kim loại, hình trụ tròn, phần lớn nhất có đường kính 2,8cm; nhỏ nhất đường kính 1cm; chiều dài tối đa là 65cm; chiều dài khi thu gọn lại là 25cm; tay cầm bọc cao su màu đen) rồi điều khiển xe đi tìm ông C và cùng ông C đến nhà bà K để nói chuyện, còn bà D cũng điều khiển xe theo sau. Khi đến nhà bà K, T đi vào nói chuyện thì giữa T và và K xảy ra mâu thuẫn, nên T rút cây gậy ba khúc đánh một cái trúng đùi bà K và xô ngã bà K xuống đất. Sau đó, tiếp tục xảy ra sự việc mâu thuẫn giữa bà D, T với bà K với người nhà bà K. Khoảng vài phút sau đó, bà D lên xe mô tô chuẩn bị đi về thì bị bà K chạy đến giằng co với ý định giữ bà D lại chờ công an đến giải quyết. Ngay lúc này, T chạy đến cầm cây gậy ba khúc đánh một cái từ trên xuống trúng đầu bà K, làm bà K ngã ra đường, bất tỉnh tại chổ, bà K được đưa đến bệnh viện đa khoa khu vực L cấp cứu, rồi chuyển đến bệnh viện Chợ Rẫy và bệnh viện Chỉnh hình và phục hồi chức năng thành phố Hồ Chí Minh điều trị.

Tại giấy chứng nhận thương tích số: 41/21BVCHPHCNTPHCM ngày 12/3/2021 của Bệnh viện Chỉnh hình và phục hồi chức năng thành phố Hồ Chí Minh thể hiện thương tích của bà Trần Thị Ngọc K như sau: “Dập xuất huyết não vùng thái dương (P), xuất huyết dưới nhện vùng đỉnh (P). Tụ máu dưới màng cứng, vùng thái dương và đỉnh (P). Nứt xương thái dương (P) và xương đỉnh hai bên Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 134/2021/TgT ngày 26/3/2021 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh Bình Thuận kết luận thương tích của bà Trần Thị Ngọc K, như sau:

- Vết thương, chấn thương vùng đỉnh đầu, nứt xương sọ đỉnh trái, thái dương phải; tụ máu ngoài màng cứng thái dương phải; dập não thái dương phải đã được điều trị nội, hiện ổn định, không có di chứng thần kinh, để lại sẹo vết thương, kích thước: 5,7 x 0,2 cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 8% + 16% + 2%.

- Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 24%.

- Vết thương, chấn thương do vật tày gây ra.

- Vết thương, chấn thương có chiều hướng tác động từ trên xuống dưới.

- Hiện tại chưa xác định cố tật./.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 103/2021/HS-ST ngày 23 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân thị xã La Gi đã quyết định:

Căn cứ vào:

- Điểm đ khoản 2 Điều 134; Điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm a khoản 1 Điều 47; Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Điểm a Khoản 2 Điều 106; Khoản 2 Điều 135 và Khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Ðiều 584, 585, 586, 590 và Ðiều 357 của Bộ luật dân sự.

- Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[2] Tuyên bố: Bị cáo Mai Bá T, phạm tội: "Cố ý gây thương tích".

[3] Xử phạt: Bị cáo Mai Bá T 03 (Ba) năm tù; Thời hạn tù được tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên tịch thu tiêu hủy vật chứng, trách nhiệm bồi thường dân sự, về án phí, quyền và nghĩa vụ thi hành án dân sự và quyền kháng cáo.

Ngảy 01 tháng 12 năm 2021, bị cáo Mai Bá T kháng cáo xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình và xin hưởng án treo.

- Ý kiến của Kiểm sát viên: xác định cấp sơ thẩm xét xử bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích”, theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người và đúng tội. Hình phạt của cấp sơ thẩm đối với bị cáo là phù hợp.

Bị cáo kháng cáo xin hưởng án treo nhưng bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “có tính chất côn đồ”, do vậy nên không đủ điều kiện hưởng án treo theo quy định tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP, ngày 15 tháng 05 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Tuy nhiên, tại cấp phúc thẩm bị cáo đã bồi thường xong phần dân sự theo bản án sơ thẩm cho người bị hại; người bị hại có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo; Bị cáo có ông ngoại là liệt sỹ nên thuộc trường hợp gia đình có công với cách mạng. Từ những nội dung này, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355 và Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự. Chấp nhận 01 phần kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm đề nghị giảm một phần hình phạt cho bị cáo, đề nghị giảm từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về phạm vi xét xử phúc thẩm: tại đơn kháng cáo, bị cáo xin được hưởng án treo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt và cho hưởng án treo. Do vậy Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ xem xét yêu cầu xin được giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo của bị cáo.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 16/02/2021, tại nhà bà Trần Thị Ngọc K thuộc khu phố 4, phường T, thị xã L. Bị cáo Mai Bá T có hành vi dùng cây gậy ba khúc (có đặc điểm: bằng kim loại, hình trụ tròn, phần lớn nhất có đường kính 2,8cm; nhỏ nhất đường kính 1cm; chiều dài tối đa là 65cm; chiều dài khi thu gọn lại là 25cm; tay cầm bọc cao su màu đen) đánh trúng đầu bà K gây ra thương tích.

Bị cáo Mai Bá T đã có hành vi vô cớ dùng cây gậy ba khúc đánh bà Trần Thị Ngọc K gây thương tích là "dùng hung khí nguy hiểm", "có tính chất côn đồ". Đây là các tình tiết định khung hình phạt của tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm a, điểm i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và với tỷ lệ tổn thương cơ thể của bà Trần Thị Ngọc K là 24%.

Hành vi của bị cáo là cố ý, đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ và gây ảnh xấu đến tình hình an ninh trật tự ở địa phương. Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Nội dung kháng cáo:

[3.1] Xét kháng cáo của bị cáo xin giảm hình phạt, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải với lỗi lầm của mình; Sau khi gây thương tích cho bà K, bị cáo đã tích cực thỏa thuận bồi thường khắc phục phần lớn hậu quả cho bị hại; Bị cáo phạm tội lần đầu; Nhân thân chưa có tiền án - tiền sự; Hiện hoàn cảnh gia đình của bị cáo rất khó khăn, vợ không có nghề nghiệp, các con còn nhỏ, bị cáo là lao động chính. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo; Sau khi xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đã xử phạt bị cáo Mai Bá T 03 năm tù là không nặng, đủ để răn đe, giáo dục bị cáo.

Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã bồi thường đủ số tiền mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho bị hại, người bị hại có đơn xin bãi nại đề nghị không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và xin cho bị cáo được hưởng án treo; bị cáo có ông ngoại là liệt sỹ, đây những tình tiết giảm nhẹ mới phát sinh ở cấp phúc thẩm. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, áp dụng tình tiết giảm nhẹ người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại; người bị hại có đơn xin bãi nại xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo và gia đình thuộc trường hợp có công với cách mạng, được quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Hội đồng xét xử, xét thấy áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cũng đủ để giáo dục và răn đe bị cáo.

[3.2] Xét kháng cáo của bị cáo xin được hưởng án treo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Điều 3, Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP, ngày 15 tháng 05 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự về án treo quy định phạm tội có tính chất côn đồ thì không được hưởng án treo. Trong vụ án này, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “có tính chất côn đồ” nên yêu cầu hưởng án treo của bị cáo không được chấp nhận.

Do vậy, không có căn cứ để cho bị cáo hưởng án treo như đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp.

[4] Về án phí phúc thẩm: do kháng cáo được được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí phúc thẩm.

[5] Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: điểm b khoản 1 Điều 355 và Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự. Chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo Mai Bá T. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 103/2021/HS-ST ngày 23 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân thị xã La Gi.

2. Tuyên bố bị cáo Mai Bá T, phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

3. Áp dụng: điểm đ khoản 2 Điều 134, Điểm b, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Mai Bá T 18 (mười tám) tháng tù; Thời hạn tù được tính từ ngày bắt thi hành án.

4. Căn cứ Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Mai Bá T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

5. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 103/2020/HS-ST ngày 23 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân thị xã La Gi không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

83
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 09/2022/HS-PT

Số hiệu:09/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;