TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀI ÂN, TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 09/2020/HS-ST NGÀY 30/07/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Trong ngày 30 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 06/2020/HSST ngày 19/6/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2020/QĐXXST-HS, ngày 17/7/2020 đối với bị cáo:
Đoàn Thanh Q, sinh năm 1975 tại A, Đ; Nơi cư trú: thôn H, xã P, huyện A, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Thợ điện; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Con ông: Đoàn Văn B, con bà Phạm Thị T (đã chết); có vợ Phan Thị Ovà 03 con, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo tại ngoại, có mặt.
- Bị hại: Ông Trần Minh D, sinh năm 1966 Nơi cư trú: Thôn H, xã P, huyện A, tỉnh Đ, có mặt.
- Người làm chứng:
1. Bà Phan Thị O, sinh năm 1983 Nơi cư trú: Thôn H, xã P, huyện A, tỉnh Đ, có mặt.
2. Ông Trần Bảo Q1, sinh năm 1980 Nơi cư trú: Thôn H, xã P, huyện A, tỉnh Đ, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 14 giờ ngày 09/11/2019, sau khi đã uống rượu, bia Đoàn Thanh Q nhớ lại việc Trần Minh D (SN 1966 ở Thôn H, xã P, huyện A, tỉnh Đ) hứa trả số tiền 11.000.000,đ thay cho con ruột là Trần Minh V nhưng không trả. Q điều khiển xe mô tô và cầm theo một con dao thái lan dài 35cm đến nhà Trần Minh D, Phan Thị O là vợ Q thấy vậy nên chạy bộ theo sau. Khi đến trước nhà D, Q nhìn thấy D và Trần Bảo Q1 đang làm mộc trong nhà nên chửi D về việc không trả tiền. D, Q1 đi ra hướng vị trí gần Q và có lời qua tiếng lại: Q nói “giờ mày không trả thì tao chém”, D trả lời “mày ngon thì chém tao đi”. Khi D vừa nói xong Q dùng dao đang cầm trên tay trái chém nhưng D tránh được, Q tiếp tục chém trúng vào vùng mặt bên phải của D gây thương tích. Thấy vậy, Phan Thị O cùng với Trần Bảo Q1 đến can ngăn, đồng thời Q1 dùng cây đánh vào vùng lưng của Q nhưng không gây thương tích gì. Sau khi can ngăn, Q1 chở D đi cấp cứu tại Trung tâm y tế huyện A, còn Q tiếp tục dùng dao chém nhiều cái vào đầu xe mô tô của D gây xây xướt nhẹ. Hậu quả Trần Minh D bị thương tích vùng mặt bên phải vết thương dài 14cm, sâu chạm xương, bờ sắc gọn.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 05/2020/PY-TgT ngày 17/01/2020, của Trung tâm pháp y tỉnh Đ đối với Trần Minh D, kết luận: Vết thương vùng mặt phải đã điều trị. Hiện mặt phải vết thương để sẹo từ dái tai đến mép miệng kích thước (11x0,2)cm, sẹo rõ. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 06%.
Cáo trạng số 06/CT-VKSHA ngày 16/6/2020 của VKSND huyện A đã truy tố Đoàn Thanh Q về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a Khoản 1 Điều 134 của BLHS.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan Điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Đoàn Thanh Q đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”. Do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo như cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 54; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, để xử phạt bị cáo Đoàn Thanh Q từ 06 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
Về trách nhiệm dân sự: Yêu cầu bị cáo bồi thường toàn bộ chi phí điều trị, ngày công không lao động được và tiền tổn thất tinh thần cho bị hại theo bảng kê Bị cáo, bị hại không có ý kiến tranh luận.
Lời nói sau cùng bị cáo biết hành vi của mình là phạm tội cố ý gây thương tích, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của KSV, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác; Hội đồng xét xử nhận định vụ án như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện A, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện A, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo, bị hại không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Đoàn Thanh Q đã khai nhận toàn bộ hành vi dùng dao gây thương tích cho Trần Minh Dnhư nội dung cáo trạng, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đó là: Vào khoảng 14 giờ, ngày 09/11/2019, tại cổng ngõ nhà Trần Minh D, sau khi có lời qua tiếng lại và thách đố nhau Đoàn Thanh Q dùng dao đang cầm trên tay chém Trần Minh D nhưng D tránh được sau đó Q tiếp tục chém vào vùng mặt bên phải gây thương tích, làm tổn hại sức khỏe cho Trần Minh D 06%. Do đó Đoàn Thanh Q đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a Khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015.
[3] Hành vi phạm tội của Đoàn Thanh Q là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe của người khác. Hành vi đó đã thể hiện sự xem thường pháp luật, xem thường sức khỏe của người khác, chỉ vì mâu thuẫn với Trần Minh V là con của Trần Minh D trong việc vay tiền của bị cáo nhưng chưa trả nên bị cáo đã mang dao tới nhà Trần Minh D la lối, chửi bới và dùng dao chém D gây thương tích tại vùng mặt, để lại sẹo dài 11 cm cho Trần Minh D. Nên cần phải xử mức án nghiêm khắc để bị cáo có thời gian cải tạo thành người công dân tốt cho xã hội và làm gương cho những người khác. Nhưng xét, trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử hôm nay, bị cáo thể hiện rõ sự ăn năn, hối cải và thật thà khai báo, bị cáo đã thương lượng bồi thường cho bị hại nhưng bị hại không nhận nên bị cáo xin nộp tiền khắc phục hậu quả tại Chi cục THADS huyện A; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên cần áp dụng các tình tiết theo quy định tại điểm b, i, s, khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần về hình phạt. Xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt, có nghề nghiệp ổn định, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần cách ly khỏi xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 của BLHS cũng đủ để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[4] Về bồi thường thiệt hại: Căn cứ vào Điều 48 của Bộ luật hình sự và Điều 590 của Bộ luật dân sự cần buộc bị cáo Đoàn Thanh Q phải bồi thường toàn bộ thiệt hại về sức khỏe đã gây ra cho bị hại, gồm các khoản: Chi phí cấp cứu, điều trị, giám định: 1.657.636,đồng, tiền ngày công không lao động được của bị hại nằm viện 07 ngày, mỗi ngày công là 300.000,đ x 07 ngày là 2.100.000,đồng và người nuôi bị hại 07 ngày với ngày công lao động phổ thông tại địa phương là 200.000,đ/ngày x 07 ngày là 1.400.000,đồng; bồi thường tổn thất về tinh thần tương ứng với 03 tháng lương cơ sở do Nhà nước quy định tại thời điểm hiện nay 1.490.000,đ x 03 tháng = 4.470.000,đồng, bằng tổng cộng là 9.627.636,đồng là khoản tiền cần buộc Đoàn Thanh Q phải bồi thường cho người bị hại. Bị cáo đã bồi thường trước 5.000.000,đồng còn phải bồi thường 4.627.636,đồng.
[5] Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 con dao dài 35 cm loại dao thái lan (theo biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu ngày 11/11/2019).
[6]. Về án phí: Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, nộp án phí, lệ phí Tòa án thì bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Đoàn Thanh Q phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
* Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134, điểm b, i, s khoản 1, Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Đoàn Thanh Q 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Đoàn Thanh Q cho UBND xã P, huyện A, tỉnh Đ quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.
“Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.
* Về bồi thường thiệt hại: Áp dụng Điều 48 của Bộ luật hình sự, Điều 590 của Bộ luật dân sự, buộc bị cáo Đoàn Thanh Q bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm cho Trần Minh D số tiền 9.627.636,đồng. Được trừ 5.000.000,đồng đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện A, còn phải tiếp tục bồi thường 4.627.636 ,đồng.
Tiếp tục tạm giữ số tiền 5.000.000,đ Đoàn Thanh Q đã nộp theo biên lai thu số 01735 ngày 20/7/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện A để đảm bảo cho việc thi hành án.
Với khoản tiền đã tuyên trên, kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án. Nếu người phải thi hành án không thi hành hoặc thi hành chậm thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải trả tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 BLDS tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
* Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 con dao dài 35 cm loại dao thái lan (theo như biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu ngày 11/11/2019).
* Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14. Bị cáo Đoàn Thanh Q phải nộp 200.000,đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 300.000,đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Đ xét xử phúc thẩm.
“Trong trường hợp bản án, quyết định được qui định theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6 điều 7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.”
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 09/2020/HS-ST
Số hiệu: | 09/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hoài Ân - Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/07/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về