Bản án về tội cố ý gây thương tích số 09/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ K, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 09/2020/HS-ST NGÀY 20/02/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 20 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã K xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 01/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2020/QĐXXST-HS ngày 06/02/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Chiến Th, sinh ngày 08/7/1985. HKTT và nơi ở: Tổ dân phố 14, thị trấn C, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 12/112. Họ và tên bố: Nguyễn Đình L (đã chết). Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị V, sinh năm 1962.Vợ: Nguyễn Thị Quỳnh Tr, sinh năm 1984(Đã ly hôn). Con: Có 02 đứa, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2013. Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ kể từ ngày 18/10/2019, đến ngày 21/10/2019 chuyển tạm giam tại trại giam Công an tỉnh Hà Tĩnh (Có mặt tại phiên tòa).

- Người bị hại: Chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr, sinh năm 1974. Trú tại: tổ dân phố H, phường H, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị V sinh năm 1962. Trú tại: Tổ dân phố 14, thị trấn C, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh (Có mặt)

2. Anh Nguyễn Đình M sinh năm 1989. Trú tại: Xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh(vắng mặt).

- Người làm chứng:

1. Chị Đặng Thị Bích Ng sinh năm 1978. Trú tại: Tổ dân phố 3, phường H, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh(vắng mặt).

2. Anh Nguyễn Tiến C sinh năm 1987. Trú tại: Tiểu khu 3, Tổ dân phố 2, phường H, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh(vắng mặt).

3. Chị Dương Thị Th sinh năm 1996. Trú tại: Tổ dân phố H, phường H, thị xã K, Hà Tĩnh(vắng mặt).

4. Anh Hoàng Văn B sinh năm 1982. Trú tại: Tiểu khu 2, Tổ dân phố 3, phường H, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh(vắng mặt).

5. Chị Dương Hải Y sinh năm 1984. Trú tại: Tổ dân phố Đông Trinh, phường L, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh(vắng mặt).

6. Chị Nguyễn Thị Thanh H sinh năm 1986. Trú tại: Tổ dân phố 3, phường H, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh(vắng mặt).

7. Chị Hoàng Thị T sinh năm 1983. Trú tại: Tổ dân phố Nhân Hòa, phường P, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh(vắng mặt).

8. Anh Ny Tr sinh năm 1987. Trú tại: Khu phố 1, phường N, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh(vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Chiến Th và chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr là vợ chồng nhưng đã ly hôn, giữa hai người có 02 đứa con chung (đứa lớn 11 tuổi, đứa nhỏ 07 tuổi) do chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr nuôi dưỡng. Vào tối ngày 24/9/2019, trong khi xem mạng xã hội, Nguyễn Chiến Th thấy tài khoản Facebook “X” đăng tin với nội dung: “Phò vô liêm sĩ”, kèm theo hình ảnh của chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr chỉ mặc “nội y” và hai đứa con gái của mình lên trang Facebook “Chợ K” cùng tin nhắn thể hiện giữa hai người phụ nữ có thái độ ghen tuông lẫn nhau. Sau khi đọc tin trên Facebook, Nguyễn Chiến Th tin rằng Nguyễn Thị Quỳnh Tr có quan hệ tình cảm bất chính với anh Kh (chồng của chủ Facebook “X”), họ đã gửi hình ảnh nhạy cảm cho nhau và bị tung lên mạng xã hội. Nguyễn Chiến Th cho rằng trên mạng xã hội Facebook có đăng ảnh nhạy cảm của chị Tr, kèm theo hình ảnh hai đứa con của Th thì sẽ ảnh hưởng đến tâm lý của con mình, nên Nguyễn Chiến Th đã nhiều lần gọi điện thoại và nhắn tin cho Nguyễn Thị Quỳnh Tr để hỏi rõ sự việc và yêu cầu chị Tr tìm cách gỡ hình ảnh và bài viết trên trang Facebook, nhưng Nguyễn Thị Quỳnh Tr không nghe máy và cũng không trả lời tin nhắn. Do bực tức về các sự việc nêu trên, nên khoảng 08h30’ ngày 25/9/2019, Nguyễn Chiến Th cầm theo 01 cái kéo (loại kéo lưỡi bằng kim loại, dài 13 cm, cán bằng nhựa màu xanh, phần lưỡi bằng kim loại sang màu dài 7cm) đi xe ô tô BKS 38C- xxxxx (xe Th thuê của ông Nguyễn Đình M để đi làm ăn) đến quán cà phê Quỳnh Hương ở phường H, thị xã K thì thấy Nguyễn Thị Quỳnh Tr đang ngồi uống cà phê trong quán. Nguyễn Chiến Th đi lại chửi bới và tát vào mặt chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr, rồi nắm tóc kéo chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr lên xe ô tô để đi về nhà nói chuyện, nhưng chị Tr giằng co không chịu lên xe. Lúc này, có người can ngăn nên Nguyễn Chiến Th lên xe đi về. Đến khoảng 09h30’ cùng ngày, biết chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr đang đi khám bệnh tại Bệnh viện đa khoa thị xã K, ở phường H, thị xã K nên Nguyễn Chiến Th đi ô tô tới đậu trước sảnh, rồi đi vào trong Bệnh viện tìm Nguyễn Thị Quỳnh Tr. Khi thấy chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr đang ngồi chờ ở phòng khám, Nguyễn Chiến Th thấy chiếc ô dựng ở bên tường nên cầm ô đánh vào người chị Tr, chị Tr bỏ chạy thì Nguyễn Chiến Th đuổi theo nắm tóc kéo chị Tr lên xe ô tô, nhưng chị Tr giằng co không lên xe. Khi đó có một số người đến can ngăn, thì Nguyễn Chiến Th lấy trong túi quần ra một chiếc kéo để đe dọa mọi người, đồng thời Nguyễn Chiến Th cầm kéo dọa đâm vào đùi chị Tr (chỉ đâm dọa, không cố tình đâm trúng vào đùi chị Tr). Trong khi đang giằng co với chị Tr, thấy cán bộ Công an thị xã K đến nên Nguyễn Chiến Th lên xe bỏ chạy. Đến ngày 18/10/2019, nhận thực được hành vi của mình nên Nguyễn Chiến Th đã đến cơ quan Công an thị xã K đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại Kết luận giám định Pháp Y số 108/TgT ngày 02/10/2019, của Trung tâm Pháp Y và giám định y khoa Hà Tĩnh kết luận: chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr bị chấn động não điều trị không ổn định, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 06% và vết thương phần mềm số lượng nhiều, kích thước nhỏ, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 06%. Áp dụng theo phương pháp cộng lùi, thì tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại của Nguyễn Thị Quỳnh Tr là 12% (áp dụng điều 3, mục II, chương 2; điều 2, mục I, chương 9 Thông tư số 20, ngày 12/6/2014 của Bộ Y tế).

Về vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra Công an thị xã K đã thu giữ vật chứng là xe ô tô BKS 38C- xxxxx, nay đã trả lại cho ông Nguyễn Đình M là chủ sở hữu do ông M không có lỗi, còn chiếc kéo và chiếc ô không thu hồi được.

Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr có đơn yêu cầu bị cáo Nguyễn Chiến Th bồi thường chi phí điều trị, tiền công, tiền chi phí giám định, tiền bồi dưỡng sức khỏe và tổn thất tinh thần với tổng số tiền là 68.700.000 đồng. Nhưng trước khi mở phiên tòa tại đơn xin xét xử vắng mặt về trách nhiệm dân sự chị Tr yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Trong quá trình điều tra, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho bị hại và bà Nguyễn Thị V, mẹ bị cáo đã tự nguyện nộp 20.000.000 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã K để đảm bảo việc bồi thường, do bị hại không hợp tác trong việc bồi thường.

Tại Cáo trạng số 05/CT –VKSTXKA ngày 09/01/2020, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã K đã truy tố bị cáo Nguyễn Chiến Th về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ, khoản 2, Điều 134 cua Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã K vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Chiến Th về tội “Cố ý gây thương tích”, đề nghị áp dụng điểm đ khoản 2 điều 134 điểm b,s,v khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38; khoản 1 Điều 54, Điều 47 của Bộ luật hình sự: Xử phạt Nguyễn Chiến Th từ 15 đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ kể từ ngày 18/10/2019. Về dân sự: Đề nghị áp dụng Điều 584, 585, 586 và 590 của Bộ luật dân sự năm 2015. Buộc bị cáo phải bồi thường cho chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr các khoản cụ thể như sau: Tiền viện phí theo hóa đơn: 2.736.000 đồng; tiền thuốc theo hóa đơn: 460.000 đồng; Tiền chi phí giám định theo hóa đơn: 1.215.000 đồng; tiền bồi dưỡng sau khi xuất viện: 2.000.000 đồng; tiền công trong những ngày nằm viện và những ngày nghỉ sau khi xuất viện: 10 ngày x 400.000 đồng = 4.000.000 đồng; tiền công người chăm sóc trong những ngày nằm viện và những ngày điều trị tại nhà: 10 ngày x 200.000 đồng = 2.000.000 đồng; tiền tổn thất tinh thần: 10 tháng lương cơ bản x 1.490.000 đồng = 14.900.000 đồng; chi phí khác: 1.689.000 đồng. Tổng cộng: 29.000.000 đồng(Hai chín triệu đồng). Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Về án phí: Đề nghị HĐXX xử buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã K, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thị xã K, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa bị hại chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr có đơn xin xét xử vắng mặt, về dân sự chị Tr yêu cầu Tòa án giải quyết theo pháp luật. Xét thấy trong quá trình điều tra người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng đã có đầy đủ lời khai trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 292, khoản 1 Điều 293 của Bộ luaath tố tụng hình sự, xét xử vắng mặt họ theo quy định của pháp luật.

[3].Về hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Chiến Th: Lời nhận tội của bị cáo tại tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thấy có đủ cơ sở kết luận: Nguyễn Chiến Th và chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr là vợ chồng, nhưng đã ly hôn và đã có 02 đứa con chung. Sau khi phát hiện có tin nhắn, kèm theo hình ảnh của chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr chỉ mặc “Nội y” và hai con gái của mình trên mạng xã hội, nên Nguyễn Chiến Th bức xúc và tìm gặp chị Tr để nói chuyện và tìm cách gỡ hình ảnh và bài viết trên mạng xã hội, nhưng chị Tr lẩn tránh. Khoảng 08h30’, ngày 25/9/2019, khi đến quán cà phê Quỳnh Hương, ở phường H, thị xã K thì gặp chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr, Nguyễn Chiến Th chửi bới và tát vào mặt chị Tr, rồi dùng tay nắm tóc kéo chị Tr lên xe ô tô để đi về nhà nói chuyện nhưng chị Tr giằng co không chịu lên xe. Do có người can ngăn nên Nguyễn Chiến Th đi về. Không dừng lại ở đó, khoảng 09h30’ cùng ngày, Nguyễn Chiến Th tiếp tục đi ô tô đến Bệnh viện đa khoa thị xã K, ở phường H, thị xã K ( nơichị Tr ngồi chờ ở phòng khám bệnh) lấy chiếc ô đánh chị Tr, chị Tr bỏ chạy thì Nguyễn Chiến Th lấy trong túi quần ra một chiếc kéo để đe dọa mọi người, đồng thời cầm kéo dọa đâm vào đùi chị Tr (chỉ đâm dọa, không cố tình đâm trúng vào đùi chị Tr). Trong khi đang giằng co với chị Tr, thấy cán bộ Công an thị xã K đến nên Nguyễn Chiến Th lên xe bỏ chạy. Quá trình giằng co đã gây ra chấn động não và nhiều vết xây xát trên cơ thể chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr, phải đi bệnh viện điều trị, với mức độ tổn thương cơ thể là 12%. Hành vi của Nguyễn Chiến Th đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự, với tình tiết tăng nặng định khung “ Phạm tội có tính chất côn đồ” được dẫn chiếu tại điểm I khoản 1 Điều 124 Bộ luật hình sự..

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã cố ý xâm phạm đến tính mạng sức khỏe của người khác được Bộ luật hình sự bảo vệ và gây mất trật tự trị an tại địa phương, nên phải xử lý nghiêm để giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

Đối với ông Nguyễn Đình M cho bị cáo thuê chiếc xe ô tô BKS 38C – xxxxx để làm ăn, không biết việc bị cáo sử dụng phương tiện vào việc phạm tội nên không phải chịu trách nhiệm hình sự.

[4]. Về nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện bị cáo Nguyễn Chiến Th chưa có tiền án, tiền sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho người bị hại; Bản thân có thành tích xuất sắc trong học tập công tác được Chủ tịch nước tặng Huy chương chiến sĩ vẻ vang hạng ba và nhiều giấy khen; sau khi phạm tội đã đến Công an thị xã K đầu thú; Bố đẻ và anh trai lập nhiều thành tích trong công tác được tặng huy chương và nhiều bằng khen và giấy khen; người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt. Đây là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b,s,v khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và nên áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự xử bị cáo dưới mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt trong khung hình phạt liền kề cũng đủ nghiêm.

[5].Về áp dụng hình phạt đối với bị cáo: Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã viện dẫn, Hội đồng xét xử thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hộimột thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo sớm trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[6].Về trách nhiệm dân sự: Sau khi sự việc xãy ra, chị Nguyễn Thị Quỳnh Trcó đơn yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền là 68.700.000 đồng, trong đó tiền thuốc, viện phí, chi phí giám định tổng cộng là 10.000.000 đồng; tiền công chăm sóc và tiền công của 02 người trong những ngày điều trị thương tích là: 9.000.000 đồng; tiền bồi dưỡng sức khỏe sau khi ra viện là: 8.000.000 đồng; tiền bồi thường tổn thất về tinh thần là: 41.700.000 đồng. Tại đơn xin xét xử vắng mặt về trách nhiệm bồi thường chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và các chi phí thực tế theo quy định, nên chấp nhận các khoản bồi thường cụ thể như sau: Tiền viện phí theo hóa đơn: 2.736.000 đồng; tiền thuốc theo hóa đơn: 460.000 đồng; Tiền chi phí giám định theo hóa đơn: 1.215.000 đồng; tiền bồi dưỡng sau khi xuất viện: 2.000.000 đồng; tiền công trong những ngày nằm viện và những ngày nghỉ sau khi xuất viện ( tính theo xác nhận thu nhập hàng tháng của người bị hại): 10 ngày x 400.000 đồng/ngày = 4.000.000 đồng; tiền công người chăm sóc trong những ngày nằm viện và những ngày điều trị tại nhà ( tính theo tiền công lao động phổ thông hàng tháng trên địa bàn): 10 ngày x 200.000 đồng/ngày = 2.000.000 đồng; tiền tổn thất tinh thần: 10 tháng lương cơ bản x 1.490.000 đồng = 14.900.000 đồng; chi phí khác như tiền xe đi lại giám định, thăm khám: 1.689.000 đồng. Tổng cộng: 29.000.000 đồng (Hai chín triệu đồng) [7]. Về xử lý vậy chứng: Vật chứng của vụ án là xe ô tô BKS 38C- xxxxx quá trình điều tra đã trả lại cho ông Nguyễn Đình M là chủ sở hữu hợp pháp đảm bảo đúng trình tự thủ tục quy định, còn chiếc kéo và chiếc ô không thu hồi được nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8]. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và án phí dân sự bồi thường theo quy định; bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về Điều luật áp dụng:

Căn cứ điểm đ khoản 2 điều 134, điểm b,s,v khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật hình sự; Căn cứ các Điều136, 299, 326, 331 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Căn cứ các Điều 584, 585, 586 và 590 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 3, khoản 1,3 Điều 21, điểm a,g khoản 1 Điều 23, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội và mục A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

2.Về tội danh và mức hình phạt:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Chiến Th phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Chiến Th 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 18/10/2019.

3. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Chiến Th phải bồi thường cho chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr số tiền 29.000.000 đồng. Nhưng được trừ số tiền 20.000.000 đồng bị cáo đã tự nguyện bồi thường nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã K theo biên lai thu tiền số AA/2016/0005017 ngày 07/01/2020, nay bị cáo phải bồi thường tiếp cho chị Nguyễn Thị Quỳnh Tr số tiền 9.000.000 đồng.

Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thảo thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm và 450.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 09/2020/HS-ST

Số hiệu:09/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kỳ Anh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;