Bản án về tội cố ý gây thương tích số 08/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 08/2021/HS-ST NGÀY 15/01/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 15 tháng 01 năm 2021, tại hội trường xét xử, Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 153/2020/TLST- HS ngày 06-11-2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 172/2020/QĐXXST-HS ngày 31-12-2020 đối với các bị cáo:

NGUYỄN VĂN X (Nhí)- sinh năm: 2001, tại Ninh Thuận.

Nơi cư trú: khu phố 6, phường KD, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: thợ sơn; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn C, sinh năm: 1970 và bà: Nguyễn Thị Lan P, sinh năm: 1969; Tiền án: không; Tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 05/02/2020, bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP. Phan Rang – Tháp Chàm khởi tố về tội Cố ý gây thương tích, ngày 03/9/2020, bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Công an TP. Phan Rang – Tháp Chàm khởi tố về tội Cố ý gây thương tích. Hiện đang tạm giam trong vụ án khác tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Rang- Tháp Chàm.

PHẠM QUỐC K (Khánh em)- sinh năm: 2001, tại Ninh Thuận.

Nơi cư trú: khu phố 6, phường KD, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: thợ mộc; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phạm Tuấn U, sinh năm: 1975 và bà: Đào Thị Xuân Y, sinh năm: 1978; Tiền án: không; Tiền sự: không; Nhân thân: ngày 03/6/2020, bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP. Phan Rang – Tháp Chàm khởi tố về tội Cố ý gây thương tích, ngày 03/9/2020, bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Công an TP. Phan Rang – Tháp Chàm khởi tố về tội Cố ý gây thương tích; Tạm giam: ngày 14/5/2020; Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Rang- Tháp Chàm.

NGÔ QUANG TR (Móp)- sinh năm: 2002, tại Ninh Thuận.

Nơi cư trú: khu phố 2, phường ĐL, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: thợ hồ; Trình độ văn hóa: 3/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Ngô Văn S, sinh năm: 1972 và bà: Lê Thị Thanh P, sinh năm: 1982; Tiền án: không; Tiền sự: ngày 08/01/2019, bị Công an thành phố Phan Rang-Tháp Chàm ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi “sử dụng công cụ hỗ trợ trái quy định nhưng chưa gây hậu quả”; Nhân thân: ngày 05/02/2020, bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP. Phan Rang – Tháp Chàm khởi tố về tội Cố ý gây thương tích; Tạm giam: ngày 14/5/2020; Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Rang- Tháp Chàm.

NGUYỄN KHẮC D- sinh ngày: 21/11/2002, tại Ninh Thuận.

Nơi cư trú: khu phố 5, phường ĐL, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: thợ sơn; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Tấn Tr, sinh năm: 1978 và bà: Trần Thị Xuân Ph, sinh năm: 1988; Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị cáo đang thực hiện lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.

Các bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

Anh Nguyễn Văn L, sinh ngày: 12/6/2005. Có mặt.

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Trần Thị L, sinh năm: 1982. Là mẹ ruột của bị hại. Có mặt.

Cùng địa chỉ: khu phố 5, phường MĐ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Bà Hoàng Thị Thanh G - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Ninh Thuận. Có mặt.

Người làm chứng:

1. Anh Phạm Ngọc P1, sinh ngày: 28/10/2004. Vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp: Ông Phạm Ngọc V, sinh năm: 1975. Vắng mặt. Cùng địa chỉ: Khu phố 5, phường KD, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận. Vắng mặt.

2. Anh Trần Đăng Kh, sinh ngày: 12/01/2004. Vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp: Ông Trần Văn T2, sinh năm: 1971. Vắng mặt.

Cùng địa chỉ; khu phố 15, thị trấn PD, huyện NP, tỉnh Ninh Thuận.

3. Anh Nguyễn Văn T3, sinh ngày: 01/10/2004. Vắng mặt.

Địa chỉ: Khu phố 6, phường V, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận. Vắng mặt.

4. Anh Phạm Anh Kh, sinh ngày: 22/01/2005. Vắng mặt.

Địa chỉ: thôn TS2, xã TH, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có mâu thuẫn từ trước nên nhóm của Nguyễn Văn X lên Facebook nhắn tin cho nhóm của Nguyễn Văn L hẹn gặp để đánh nhau.

Khoảng 21 giờ ngày 11/01/2020, Nguyễn Khắc Duy có nói cho Thành biết nhóm của L hẹn gặp ở nhà hoang thuộc khu phố 2, phường Mỹ Bình, thành phố P. Thành nhắn tin cho Lê Thanh R, Trần Đăng Kh, Phạm Quốc K, Ngô Quang Tr và Phạm Ngọc P1 đến Từ đường họ Diệp ở phường KD rồi rủ cả nhóm đi đánh nhóm của L để trả thù thì tất cả đồng ý. Khi đi, nhóm của Thành mang theo một bao da màu đen đựng hung khí do R tự chế và để sẵn trong Từ đường. Kh, Thành, R, K, P1 đi trên 03 xe mô tô, Duy đi xe đạp điện một mình. Sau khi đến ngã tư đường phía sau nhà hoang, cách nhà hoang khoảng 150m, Thành gọi điện cho Nguyễn Đình Khánh kêu đến đánh nhau, Khánh đồng ý và điều khiển xe Jupiter biển số 85R7 – 1452 chạy đến ngã tư trên. Sau đó cả nhóm mở bao và lấy hung khí, Thành, R, K mỗi người cầm 01 cây mác tự chế dài khoảng 60 cm, Tr và P1 mỗi người cầm một cây đao dài khoảng 50 cm rồi cả nhóm sử dụng xe chạy tới trước khu nhà hoang. Thành, P1, Tr, K, R xuống xe đuổi chém nhóm của L gồm Nguyễn Văn L, Nguyễn Duy P1c, Phạm Anh Kh và Nguyễn Văn T3. Thấy vậy, nhóm của L bỏ chạy, Thành, P1, Tr rượt đuổi nhưng không chém được ai. K và R đuổi theo L, khi đang chạy, L bị ngã thì K và R lao tới chém nhiều nhát vào người L khiến L bị thương tích vùng gối trái, ngoài giữa đùi phải, cẳng chân phải, ngang thắt lưng phải, dọc lưng trái, 1/3 dưới cánh tay trái, khuỷu tay trái. Duy, Kh và Khánh ngồi ở trên xe quan sát. Khi thấy L chảy nhiều máu thì K và R dừng lại. Tất cả lên xe về lại Từ đường họ Diệp, R mang hung khí đi cất giấu.

Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 29/TgT ngày 16 tháng 3 năm 2020 của Trung tâm giám định Y Kh – Pháp y tỉnh Ninh Thuận kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của Nguyễn Văn L do thương tích gây nên là 14%.

Cáo trạng số 145/CT-VKSPR ngày 05/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm truy tố các bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên việc truy tố các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào: điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt các bị cáo Nguyễn Văn X, Phạm Quốc K từ 15 đến 18 tháng tù; xử phạt bị cáo Ngô Quang Tr từ 12 đến 15 tháng tù; căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Khắc Duy từ 09 đến 12 tháng tù.

Các bị cáo nói lời sau cùng: “Bị cáo đã biết lỗi của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo”.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của các bị cáo phù hợp với các chứng cứ khác đã được thu thập tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Do có mâu thuẫn từ trước nên khoảng 21 giờ ngày 11/01/2020, tại căn nhà hoang thuộc khu phố 2 phường Mỹ Bình, TP. Phan Rang – Tháp Chàm, nhóm của Nguyễn Văn X đã sử dụng mác và đao tự chế là hung khí nguy hiểm đi đánh nhóm của Nguyễn Văn L. Hậu quả Nguyễn Văn L là người dưới 16 tuổi bị chém, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 14%. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm truy tố các bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự với 02 tình tiết định khung tăng nặng dùng hung khí nguy hiểm, phạm tội đối với người dưới 16 tuổi là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm hại đến sức khỏe của người khác mà còn ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương nên cần xử lý nghiêm minh trước pháp luật nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, để có cơ sở quyết định hình phạt, HĐXX phân tích vai trò, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của từng bị cáo như sau:

[4.1] Bị cáo Nguyễn Văn X: là người cầm đầu, khởi xướng việc đi đánh nhau; bị cáo cầm 01 cây mác tự chế đuổi chém nhóm của bị hại nhưng không gây thương tích cho ai. Bị cáo phải chịu mức án cao so với đồng phạm.

[4.2] Bị cáo Phạm Quốc K: là người trực tiếp dùng mác tự chế chém nhiều nhát vào người bị hại. Bị cáo tham gia vụ án rất tích cực. Bị cáo có nhân thân xấu. Vì vậy bị cáo phải chịu mức hình phạt cao, ngang bằng với bị cáo X.

[4.3] Bị cáo Ngô Quang Tr: khi bị cáo X rủ đi đánh nhau, bị cáo đồng ý và cùng tham gia đi, bị cáo cầm một cây đao đuổi chém nhóm của bị hại nhưng không gây thương tích cho ai. Vai trò của bị cáo hạn chế hơn so với bị cáo X, K nên bị cáo chịu mức án thấp hơn.

[4.4] Bị cáo Nguyễn Khắc Duy: khi bị cáo X rủ đi đánh nhau, bị cáo đồng ý và cùng tham gia đi, do bị cáo đi xe đạp điện nên đến sau, chỉ đứng ngoài quan sát. Vai trò của bị cáo hạn chế nhất trong vụ án nên bị cáo chịu mức án thấp nhất.

Các bị cáo đều có tình tiết giảm nhẹ là đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại, thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; các tình tiết này được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Khi phạm tội bị cáo Duy là người dưới 18 tuổi nên khi quyết định hình phạt áp dụng Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo.

Do các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên HĐXX chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt các bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Riêng bị cáo Duy có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, vai trò hạn chế, chỉ đứng ngoài quan sát chứ không cầm hung khí, không tham gia đuổi chém nhóm của bị hại, tại thời điểm phạm tội chưa đủ 18 tuổi, gia đình có hoàn cảnh khó khăn… nên không cần cách ly ra khỏi đời sống xã hội, cho hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe.

[5] Vật chứng của vụ án: 03 cây mác dài khoảng 60 cm; 02 cây đao tự chế dài khoảng 50 cm, quá trình điều tra xác định Lê Thanh R là người cất giữ số hung khí này, tuy nhiên hiện nay R đã bỏ trốn nên cơ quan điều tra không thu hồi được.

[6] Về dân sự:

Nguyễn Văn L đã nhận bồi thường 2.000.000 đồng từ gia đình các bị cáo. Tại phiên tòa các bị cáo và bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại thỏa thuận tiếp tục bồi thường cho bị hại 10.000.000 đồng, chia phần mỗi bị cáo 2.500.000 đồng.

Xét sự thỏa thuận này là tự nguyện, phù hợp pháp luật nên HĐXX công nhận.

[7] Đối với Nguyễn Đình Khánh, Lê Thanh R sau khi phạm tội đã bỏ trốn, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định truy nã, Quyết định tách vụ án. Khi nào bắt được sẽ xử lý sau.

[8] Đối với Trần Đăng Kh và Phạm Ngọc P1, tại thời điểm phạm tội chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra chuyển hồ sơ về Công an phường Mỹ Bình để xử phạt vi phạm hành chính.

[9] Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại thống nhất với luận tội của đại diện viện kiểm sát, đề nghị HĐXX công nhận thỏa thuận giữa các bị cáo và bị hại. Xét ý kiến này phù hợp pháp luật, nên chấp nhận.

[10] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, phù hợp với những nhận định trên, nên chấp nhận. Riêng trường hợp của bị cáo Duy, không cần thiết phải xử phạt tù như đã nhận định trên.

[11] Về án phí: các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: các bị cáo Nguyễn Văn X (Nhí), Phạm Quốc K (Khánh em), Ngô Quang Tr (Móp), Nguyễn Khắc Duy phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Căn cứ vào: điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn X (Nhí) 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

Căn cứ vào: điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Quốc K (Khánh em) 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/5/2020.

Căn cứ vào: điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Ngô Quang Tr (Móp) 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/5/2020.

Căn cứ vào: điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54, Điều 65, các điều 91, 101 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Khắc Duy 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường ĐL, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Tr hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về trách nhiệm dân sự:

Căn cứ: Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 590 Bộ luật dân sự Công nhận sự thỏa thuận giữa các bị cáo và bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại như sau: các bị cáo đồng ý liên đới bồi thường cho bị hại 10.000.000 (mười triệu) đồng, chia phần mỗi bị cáo bồi thường 2.500.000 (hai triệu năm trăm ngàn) đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Về án phí:

Căn cứ vào: Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 (ba trăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 06, 07 và 09 Luật Thi hành án dân sự;

thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt các bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án;

(đã giải thích chế định án treo cho bị cáo D)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 08/2021/HS-ST

Số hiệu:08/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;