Bản án về tội cố ý gây thương tích số 07/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 07/2024/HS-PT NGÀY 04/01/2024 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 04 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 780/2023/TLPT-HS ngày 11 tháng 10 năm 2023 đối với các bị cáo Phan Nhật H, Trần Minh T, Trần Tiến Đ và Vy Minh L do có kháng cáo của bị cáo Phan Nhật H, Trần Minh T, Trần Tiến Đ và Vy Minh L đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 422/2023/HS-ST ngày 30/8/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1/ Họ tên: Phan Nhật H; Giới tính: Nam; sinh năm 2003 tại tỉnh Bình Phước; Hộ khẩu thường trú: 17/11/4 đường TB, Khu phố 7, phường HBC, thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở hiện nay: 49A đường HB, phường HBC, thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 11/12; nghề nghiệp: lao động tự do; Cha: Phan Thành T, mẹ: Lê Thị Phương T; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/4/2022; có mặt tại phiên tòa.

2/ Họ tên: Trần Minh T; giới tính: Nam; sinh năm 1993 tại Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: 24/33 đường TB, Khu phố 8, phường HBC, thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở hiện nay: 24/33 đường TB, Khu phố 8, phường HBC, thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: chạy xe ôm công nghệ; cha: Trần Văn T; mẹ: Nguyễn Thị Ngọc C; Vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/4/2022; có mặt tại phiên tòa.

3/ Họ tên: Trần Tiến Đ; giới tính: Nam; Sinh năm 2000 tại tỉnh Hà Tĩnh; thường trú: Xóm 3, xã LM, huyện ĐT, tỉnh Hà Tĩnh; chỗ ở hiện nay: nhà không số, Đường 48, Khu phố 6, phường HBC, thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: công nhân; cha: Trần Tiến Đ1; Mẹ: Nguyễn Thị N; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/4/2022; có mặt tại phiên tòa.

4/ Họ tên: Vy Minh L; giới tính: Nam; sinh năm 1999 tại tỉnh Quảng Ngãi;

thường trú: thôn PL, xã TP, huyện ST, tỉnh Quảng Ngãi; chỗ ở hiện nay: thôn PL, xã TP, huyện ST, tỉnh Quảng Ngãi; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: nhân viên công nghệ thông tin; cha: Vy Công L1; mẹ: Nguyễn Thị Kim H; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/3/2023; có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho các bị cáo Phan Nhật H, Trần Minh T, Trần Tiến Đ: Luật sư Dương Thị Hồng H, Công ty Luật TNHH ĐV, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Vy Minh L: Luật sư Nguyễn Trung C, Công ty Luật TNHH MTV CT, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt.

Trong vụ án này có bị cáo Lê Minh T, Võ Minh H, Quách Phương Đ, Trần Thị Như H, Vy Công K, Bùi Minh H, Bùi T và người bị hại không có kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ ngày 11/4/2022, Vy Minh L, Vy Công L2, Vy Công K, Bùi Minh H, Bùi T tổ chức ăn, uống rượu, bia tại tiệm làm quảng cáo PT địa chỉ số 18B đường TB, phường HBC, thành phố TĐ. Đến khoảng 01 giờ 30 phút ngày 12/4/2022, do hết thức ăn nên Vy Minh L điều khiển xe mô tô Yamaha Sirius, biển số 63B1-196.xx chở Bùi Minh H và Vy Công K đi ra ngoài mua thức ăn. Lúc về đến giao lộ đường TB và Đường 42 thì Vy Minh L nhiều lần nẹt pô xe và suýt va chạm giao thông với xe Dream biển số 93T4-4xxx do Phan Nhật H điều khiển chở Lê Minh T. Phan Nhật H, Lê Minh T chửi Vy Minh L, Bùi Minh H và Vy Công K, hai bên cự cãi với nhau. Phan Nhật H và Lê Minh T chạy về nhà của Trần Minh T địa chỉ số 24/33 đường TB, phường HBC, thành phố TĐ kể lại chuyện mâu thuẫn với Vy Minh L, Bùi Minh H, Vy Công K và rủ Trần Minh T đi đánh nhau nhưng Trần Minh T không đi. Phan Nhật H lấy con dao bằng kim loại có cán inox màu trắng, Lê Minh T lấy cây tuốc-nơ-vít rồi Phan Nhật H điều khiển xe mô tô chở Lê Minh T chạy đến gần tiệm quảng cáo PT thì gặp Vy Minh L, Bùi Minh H, Vy Công K nên dừng lại. Phan Nhật H lấy dao chém trúng vào người của Vy Minh L. Bùi Minh H và Vy Công K bỏ chạy đến tiệm bán vật liệu xây dựng gần đó nhặt gạch ống ném về phía Phan Nhật H và Lê Minh T. Vy Công L2 và Bùi T đang ở trong tiệm quảng cáo bước ra thấy Vy Minh L, Bùi Minh H, Vy Công K đánh nhau nên mỗi người lấy 01 thanh thép vuông dài khoảng 01m chạy ra cùng với Vy Minh L, Bùi Minh H, Vy Công K đuổi đánh Phan Nhật H và Lê Minh T. Do bị đuổi đánh nên Phan Nhật H bỏ lại xe cùng Lê Minh T chạy bộ về nhà Trần Minh T. Vy Công L2, Vy Công K, Bùi Minh H mỗi người cầm cây sắt đi bộ còn Vy Minh L chở Bùi T bằng xe mô tô biển số 63B1-196.xx đuổi theo đi tìm Phan Nhật H và Lê Minh T nhưng không thấy nên quay về tiệm quảng cáo PT.

Sau khi bị đuổi đánh, Phan Nhật H và Lê Minh T chạy bộ về nhà Trần Minh T, Phan Nhật H gọi điện thoại, nhắn tin cho Võ Minh H và Quách Phương Đ (bạn của Lê Minh T và Phan Nhật H) kể lại sự việc bị đánh, bỏ lại xe và kêu Võ Minh H, Quách Phương Đ về nhà Trần Minh T. Lúc này Võ Minh H, Quách Phương Đ, Trần Tiến Đ và Trần Thị Như H đang ngồi uống cà phê, sau khi nghe điện thoại Võ Minh H chở Trần Tiến Đ đi trước còn Quách Phương Đ chở Trần Thị Như H chạy sau.

Khi đi ngang qua tiệm quảng cáo PT, Võ Minh H và Trần Tiến Đ nhìn thấy xe của Phan Nhật H để trước tiệm còn Vy Công L2, Vy Minh L, Vy Công K, Bùi Minh H, Tiến cầm hung khí (cây sắt) đi ngang qua giao lộ đường TB và Đường 42 (đi tìm Phan Nhật H và Lê Minh T để đánh). Võ Minh H biết nhóm này vừa đánh Phan Nhật H và Lê Minh T nên Võ Minh H dừng xe lại, Trần Tiến Đ xuống xe nhặt cây tầm vông ven đường đánh nhóm của Vy Minh L thì bị nhóm của Vy Minh L đánh lại, Võ Minh H điều khiển xe bỏ chạy, Trần Tiến Đ chạy bộ theo sau làm rớt cây tầm vông và bị Vy Công L2 cầm cây thép vuông đánh trúng vào lưng. Vy Công L2 cầm cây sắt, Vy Minh L cầm cây tầm vông (do Trần Tiến Đ làm rớt), Vy Công K cầm cây sắt, Bùi Minh H cầm cây sắt, Tiến cầm cây sắt đuổi theo nhóm Trần Tiến Đ nhưng không kịp.

Sau đó, Võ Minh H chở Trần Tiến Đ chạy về nhà Trần Minh T, Quách Phương Đ chở Trần Thị Như H chạy theo sau. Vy Công K dắt xe máy của Phan Nhật H về trước tiệm quảng cáo PT, Vy Công L2 và Bùi Minh H dùng thanh thép vuông đập phá đầu xe thì Vy Công K can ngăn. Vy Công L2, Vy Minh L, Vy Công K, Bùi Minh H, Tiến đóng cửa tiệm đi về nhà vì sợ nhóm của Phan Nhật H đến đánh trả thù.

Tại nhà của Trần Minh T gồm Phan Nhật H, Lê Minh T, Trần Minh T, Võ Minh H, Trần Tiến Đ, Quách Phương Đ, Trần Thị Như H bàn bạc đi đánh nhóm của Vy Minh L và lấy lại xe của Phan Nhật H, Phan Nhật H mang theo dao (đã lấy trước đó), Trần Tiến Đ lấy cây dao rựa, Lê Minh T lấy dao tự chế. Lê Minh T chở Trần Minh T, Võ Minh H chở Trần Tiến Đ, Trần Thị Như H chở Quách Phương Đ và Phan Nhật H chạy ra Đường 42 gần đến giao lộ với đường TB thì Trần Minh T cầm dao, Trần Tiến Đ cấm rựa, Phan Nhật H cầm dao xuống xe đi bộ chờ đón đánh nhóm của Vy Minh L, còn Lê Minh T, Võ Minh H, Trần Thị Như H và Quách Phương Đ ngồi trên xe chờ. Lúc này nhóm của Vy Minh L rời tiệm quảng cáo PT đi về, Tiến và Bùi Minh H mỗi người đi 01 xe chạy trước, đến giao lộ Đường 42 và Tam Bình thì Trần Minh T cầm dao, Trần Tiến Đ cầm rựa xông ra chém nhưng không trúng, Vy Minh L chạy xe máy phía sau thấy vậy liền lấy 01 thanh thép vuông chạy xe đến giao lộ thì dừng lại. Trần Minh T chạy đến chém trúng vào tay Vy Minh L, Vy Minh L đánh trả thì bị Trần Tiến Đ cầm rựa chém trúng vào lưng làm cán rựa bị gãy, lưỡi rựa rơi xuống đường. Trần Minh T cầm dao và Trần Tiến Đ cầm lưỡi rựa bằng tay trái, cán rựa bằng tay phải đánh, chém Vy Minh L. Vy Công L2 và Vy Công K cầm thanh thép vuông đánh với Trần Tiến Đ, Phan Nhật H. Vy Công L2 bị chém trúng nhiều vết thương trong đó có 02 vết thương ở cẳng tay và khuỷu tay phải. Trần Minh T bị thương ở đầu. Vy Minh L cũng bị Vy Công K, Trần Tiến Đ, Phan Nhật H chém trúng nhiều vết thương; Vy Minh L, Vy Công L2, Vy Công K bỏ chạy để lại xe máy hiệu Sirius của Vy Minh L, Phan Nhật H cầm dao và Trần Tiến Đ cầm rựa đập xe của Vy Minh L rồi cả nhóm lấy lại xe của Phan Nhật H chạy về nhà Trần Minh T cất hung khí và đưa Trần Minh T đến Bệnh viện Nhân dân Gia Định may vết thương, sau đó tất cả bỏ trốn.

Hậu quả Vy Công L2 bị thương được đưa vào Bệnh viện thành phố TĐ cấp cứu và chết vào ngày 12/4/2022, Vy Công Vy Minh L và Trần Minh T bị thương, hư hỏng xe mô tô biển số 63B1-196.xx và xe mô tô biển số 93T4-4xxx.

Kết luận giám định pháp y tử thi số 2169-22/KL-KTHS ngày 14/6/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh đối với Vy Công L2, kết luận: Vy Công L2 chết do sốc mất máu không hồi phục do vết thương đứt động mạch quay và động mạch trụ phải kèm theo chấn thương sọ não nhẹ trên nền chấn thương sọ não cũ. Trong máu tìm thấy cồn, nồng độ 87mg/100ml.

Kết luận giám định pháp y về thương tích số 572/TgT.22 ngày 20/7/2022 của Trung tâm Pháp y, Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh đối với Vy Minh L, kết luận:

+ Vết thương vùng đuôi mày phải gây đứt da, nứt xương gò má, đã được điều trị hiện còn một sẹo kích thước 5,7x(0,1-0,2cm), hình ảnh nứt xương trên phim chụp cắt lớp vi tính, tỷ lệ 14%.

+ Vết thương mặt sau ngoài 1/3 dưới cánh tay trái gây đứt da, đứt cơ tam đầu, gãy xương cánh tay đã được điều trị hiện còn 01 sẹo kích thước 12x(0,3- 0,7cm), hình ảnh gãy xương trên phim chụp X quang, vận động bình thường có tỷ lệ 14%.

+ Vết thương mặt mu bàn tay trái gây đứt da, đứt gân duỗi ngón tay I đã được điều trị hiện còn 01 sẹo kích thước 8,8x(0,15-0,4cm), tổn thương dây thần kinh quay nông ngay dưới vị trí vết thương trên điện cơ đồ tại thời điểm giám định, giảm cảm giác vùng ngoài gan bàn tay, mặt mu đốt gần, giữa hai ngón rưỡi ngoài, vận động bình thường có tỷ lệ 13%.

Ba thương tích trên do vật sắc hoặc vật sắc nhọn tác động gây ra.

+ Các vết tăng giảm sắc tố tại: vùng bả vai phải có 03 vết kích thước lần lượt là 4x0,15cm; 2,5x0,15cm; 4,4x0,5cm; vùng dưới ngoài bả vai trái kích thước 10,5x(0,2-0,5)cm; vùng liên kết cột sống thắt lưng kích thước 16,5x(0,1- 0,2)cm; 05 vết thương có tỷ lệ 0,5% mỗi vết.

+ 01 sẹo mặt ngoài vai cánh tay trái kích thước 2,5x0,8cm có đuôi tận nông 02 đều kích thước 3x0,3cm và 4,5x0,3cm có tỷ lệ 2%.

+ 01 sẹo mặt mu ngón II tay phải kích thước 1,8x0,15cm có tỷ lệ 01% +01 sẹo mặt mu khớp bàn ngón IV tay phải kích thước 1,8x0,2cm có tỷ lệ 01%.

+ 01 sẹo mặt ngoài 1/3 dưới cẳng chân trái kích thước 3x0,8cm và 5,5x(0,1-0,3cm) có tỷ lệ 02% mỗi vết.

+ 02 sẹo bờ trong bàn chân phải kích thước 1x0,7cm và 1,2x0,5cm có tỷ lệ 02% và 01%.

Thương tích trên do vật sắc, vật sắc nhọn hoặc vật có cạnh tác động gây ra. Thương tích ở bàn chân phải do vật tày, vật tày nhám hoặc phần cơ thể tác động vào các vật trên gây ra.

Các thương tích không nguy hiểm đến tính mạng, tỷ lệ thương tích là 44%. Hai con dao và cây rựa như ảnh Cơ quan Cảnh sát điều tra cung cấp gây ra được tất cả các thương tích trên trừ 02 sẹo bờ trong bàn chân phải.

Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 400/TgT.22 ngày 30/5/2022 của Trung tâm pháp y, Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh đối với Trần Minh T, kết luận:

Vết thương vùng đầu trong cung mày trái đã được điều trị hiện còn vết sẹo kích thước 2,9x(0,1-0,2cm) hình ảnh mẻ bản ngoài xoang trán trái ngay trước vị trí vết thương trên phim chụp cắt lớp vi tính, tình trạng ổn định, tỷ lệ 8%.

Thương tích do vật sắc hoặc vật sắc nhọn gây ra, không nguy hiểm đến tính mạng. Con dao như hình ảnh Cơ quan Cảnh sát điều tra cung cấp có thể gây ra được thương tích trên.

Kết luận định giá tài sản số 404/KV3/KLĐG-HĐĐGTS ngày 04/11/2022 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự của Ủy ban nhân dân thành phố TĐ kết luận:

- Giá trị thiệt hại xe mô tô biển số 63B1-196.xx là 1.750.000 đồng.

- Giá trị thiệt hại xe mô tô biển số 93T4-4xxx là 1.550.000 đồng.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an Thành phố Hồ Chí Minh các bị can khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của người bị hại, vật chứng thu giữ, biên bản khám nghiệm hiện trường, hình ảnh trích xuất từ camera và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng vụ án: Quá trình điều tra, cơ quan công an thu giữ 07(bảy) mẫu dấu vết máu; 01(một) con dao dài khoảng 81cm, cán dao bằng kim loại màu đen, lưỡi dao bằng kim loại màu đen dài khoảng 57.5cm, bán lưỡi chỗ rộng nhất khoảng 6,5cm; 01(một) con dao dài khoảng 74cm, cán dao bằng inox, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng dài khoảng 57cm, bán lưỡi chỗ rộng nhất khoảng 04cm;

01 (một) con dao dài khoảng 61cm, cán dao bằng nhựa màu trắng, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng dài khoảng 40cm, bản lưỡi chỗ rộng nhất khoảng 03cm.

01(một) lưỡi rựa còn dính 01 đoạn cán gỗ gãy, lưỡi rựa bằng kim loại dài khoảng 37cm, bản lưỡi chỗ rộng nhất khoảng 05cm; 01 (một) áo khoác jeans dài tay, trên áo đinh mục Abercrombie&Fitch; 06(sáu) mẫu vết máu 01 (một) cán rựa bằng gỗ, hình trụ tròn dài khoảng 46cm, đường kính khoảng 3,2cm. 01(một) thanh kim loại dạng trụ vuông rỗng ruột bị cong, dài khoảng 100cm, cạnh khoảng 02cm; 01(một) thanh kim loại dạng trụ vuông rỗng ruột bị cong, dài khoảng 120cm, cạnh khoảng 02cm; 01(một) thanh kim loại dạng trụ vuông rỗng ruột, dài khoảng 143cm, cạnh khoảng 02cm; 01(một) thanh kim loại dạng trụ vuông rỗng ruột bị cong, dài khoảng 56cm, cạnh khoảng 02cm; 01 (một) thanh kim loại dạng trụ vuông rỗng ruột, dài khoảng 74cm, cạnh khoảng 2,5cm; 01(một) tuốc-nơ-vít dài khoảng 28,5cm; 01 Xe hai bánh gắn máy; hiệu: YAMAHA, So loại: SIRIUS Dung tích xi lanh: 110, BS: 63B1-196.xx; SKII RLCS5C640CY977236; SM: 5C64977242 236 (đèn, bàn thờ bể nát, nhựa đồng đồng hồ bể, yên rách, không gương, dàn nhựa bề, xe cũ ri sét, máy móc bên trong không kiểm tra); 01 Xe hai bánh gắn máy, Nhãn hiệu: không xác định Số loại: không xác định; Dung tích xi lanh: 97, BS: 93T4-4xxx; SK: RRKDCGXUM7X015649; 11 Chiếc XMAY2/451BB/2023 SM: VTTJL1P50FMG-015649 (bế đèn trước, không mặt nạ, không gương, dân nhựa bể, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra).

Về trách nhiệm dân sự:

Ông Vy Công L1 (cha nạn nhân Vy Công L2) yêu cầu bồi thường tiền 918.000.000 đồng (tại phiên toà ông Vy Công L1 yêu cầu bồi thường 700.000.000 đồng).

Vy Minh L yêu cầu bồi thường số tiền 160.000.000 đồng.

Các bị cáo Trần Minh T, Phan Nhật H, Trần Tiến Đ, Lê Minh T, Võ Minh H, Quách Phương Đ, Trần Thị Như H chưa bồi thường.

Tại bản Cáo trạng số 395/CT-VKS-P2 ngày 25/7/2023, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố để xét xử đối với các bị cáo:

Phan Nhật H, Trần Minh T, Trần Tiến Đ, Lê Minh T, Võ Minh H, Quách Phương Đ, Trần Thị Như H, về tội “Giết người” và tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm n khoản 1 Điều 123 và điểm c khoản 3 Điều xxx Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Vy Minh L, Vy Công K, Bùi Minh H, Bùi T, về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

* Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 422/2023/HS-ST ngày 30/8/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

1. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm c khoản 3 Điều xxx; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; điểm c khoản 1 Điều 55; Điều 39 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phan Nhật H tù chung thân, về tội “Giết người”; 06 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của 02 tội là tù chung thân. Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 13/4/2022.

2. Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm c khoản 3 Điều xxx; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; điểm a, khoản 1 Điều 55; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Minh T 20 năm tù, về tội “Giết người”; 05 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của 02 tội là 25 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày: 13/4/2022.

Xử phạt bị cáo Trần Tiến Đ 18 năm tù, về tội “Giết người”; 05 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của 02 tội là 23 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày: 13/4/2022.

4. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Vy Minh L 02 năm tù, về tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Thời hạn tù tính từ ngày: 15/3/2022.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định tội danh và hình phạt đối với các bị cáo Lê Minh T, Võ Minh H, Quách Phương Đ, Trần Thị Như H, Vi Công Vy Công K, Bùi Minh H, Bùi T; về trách nhiệm dân sự; về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm; về trách nhiệm do chậm thi hành án; về nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

- Ngày 05/9/2023 các bị cáo Phan Nhật H, Trần Minh T, Trần Tiến Đ và Vy Minh L có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Các bị cáo Phan Nhật H, Trần Minh T, Trần Tiến Đ đều giữ nguyên lời khai như tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm. Các bị cáo thừa nhận bản án sơ thẩm xử phạt các bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan nhưng hình phạt của tội “Giết người” quá nặng nên các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Bị cáo Vy Minh L rút toàn bộ nội dung kháng cáo. Do nhận thấy hình phạt đối với bị cáo là tương xứng nên bị cáo tự nguyện xin rút toàn bộ kháng cáo.

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án như sau:

Việc thực hiện quy định pháp luật tố tụng hình sự của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được đảm bảo. Đơn kháng cáo của các bị cáo đúng về hình thức, trong hạn luật định, đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

Về nội dung kháng cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ khoản 1 Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Vy Minh L.

- Luật sư trình bày luận cứ bào chữa cho các bị cáo Phan Nhật H, Trần Minh T, Trần Tiến Đ: Các bị cáo đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu. Sau khi phạm tội có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Hoàn cảnh gia đình của các bị cáo rất khó khăn; đặc biệt bị cáo Phan Nhật H, bố mẹ đã ly hôn, bị cáo phải nghỉ học để phụ mẹ nuôi 3 em. Các bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho gia đình bị hại một phần thiệt hại (bị cáo Phan Nhật H bồi thường 22.857.000 đồng, bị cáo Trần Minh T bồi thường 25.000.000 đồng, bị cáo Trần Tiến Đ bồi thường 30.000.000 đồng). Bị cáo Phan Nhật H và bị cáo Trần Tiến Đ có ông, bà (nội, ngoại) là người có công với cách mạng. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo. Do các bị cáo có 2 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự để cho các bị cáo được hưởng sự khoan hồng vì tuổi đời của các bị cáo còn rất trẻ. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, sửa bản án sơ thẩm theo hướng áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo Phan Nhật H, giảm hình phạt đối với bị cáo Trần Minh T và bị cáo Trần Tiến Đ. Các bị cáo không bào chữa bổ sung gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của các bị cáo Phan Nhật H, Trần Minh T, Trần Tiến Đ và Vy Minh L đảm bảo đúng hình thức và trong thời hạn luật định, đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm. Căn cứ vào lời khai của các bị cáo, các chứng từ, tài liệu điều tra thu thập được có trong hồ sơ vụ án Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 12/4/2022, xuất phát từ việc sau khi uống rượu, bia Vy Minh L chở Vy Công K và Bùi Minh H bằng xe mô tô, khi lưu thông trên đường Vy Minh L điều khiển xe chạy nẹt pô xe và suýt va chạm với xe mô tô do Pham Nhật Phan Nhật H điều kiển chở Lê Minh T dẫn đến mâu thuẫn giữa 2 nhóm. Phan Nhật H, Lê Minh T cùng Trần Minh T, Trần Tiến Đ, Võ Minh H, Quách Phương Đ, Trần Thị Như H đã dùng hung khí đánh nhau với nhớm của Vy Minh L, Vỹ Công Vy Công L2, Vy Công K, Bùi Minh H, Bùi T hậu quả làm cho Vy Công L2 tử vong tại Bệnh viện Thủ Đức vào ngày 12/4/2022, Vy Công Vy Minh L bị thương tổn hại 44% sức khỏe. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo Phan Nhật H, Trần Minh T, Trần Tiến Đ, Lê Minh T, Võ Minh H, Quách Phương Đ, Trần Thị Như H về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự và tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều xxx; xử phạt các bị cáo Vy Minh L, Vy Công K, Bùi Minh H, Bùi T về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan.

[3] Xét nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Phan Nhật H, Trần Minh T, Trần Tiến Đ, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, gây ảnh hưởng rất xấu cho xã hội về nhiều mặt; đã trực tiếp tức đoạt trái pháp luật tính mạng của anh Vỹ Công Vy Công L2, gây thương tích làm tổn thương cơ thể của Vy Minh L 44%. Các bị cáo đã sử dụng hung khí thực hiện hành vi phạm tội rất liều lĩnh, quyết liệt thể hiện ý thức quá xem thường pháp luật, xem nhẹ tính mạng, sức khỏe của người khác. Vì vậy, cần phải áp dụng hình phạt thật nghiêm khắc mới có đủ tác dụng giáo dục, cải tạo các bị cáo và ra đe, phòng ngừa chung. Mặc dù, trước khi xét xử phúc thẩm các bị cáo Phan Nhật H, Trần Minh T, Trần Tiến Đ đã tác động gia đình bồi thường cho gia đình bị hại Vy Công L2 (bị cáo Phan Nhật H 22.857.000 đồng, bị cáo Trần Minh T 25.000.000 đồng, bị cáo Trần Tiến Đ 30.000.000 đồng). Bị cáo Phan Nhật H, bị cáo Trần Tiến Đ bổ sung chứng cứ thể hiện có ông, bà (nội, ngoại) là người có công với cách mạng. Nhưng Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy bản án sơ thẩm tuyên phạt bị cáo Phan Nhật H tù chung thân, bị cáo Trần Minh T 20 năm tù, bị cáo Trần Tiến Đ 18 năm tù về tội “Giết người” là tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm và vai trò của từng bị cáo, là phù hợp và cần thiết nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của các bị cáo và ý kiến đề nghị của Luật sư; chấp nhận ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Vy Minh L rút toàn bộ nội dung kháng cáo, xét thấy bị cáo rút kháng cáo là hoàn toàn tự nguyện nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Vy Minh L.

[5] Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo Phan Nhật H, Trần Minh T, Trần Tiến Đ phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Đối với các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Phan Nhật H, Trần Minh T, Trần Tiến Đ giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 422/2023/HS-ST ngày 30/8/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

1.1. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm c khoản 3 Điều xxx; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; điểm c khoản 1 Điều 55; Điều 39 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phan Nhật H tù chung thân, về tội “Giết người”; 06 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của 02 tội là tù chung thân, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt, tạm giam ngày 13/4/2022.

1.2. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm c khoản 3 Điều xxx; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; điểm a, khoản 1 Điều 55; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Minh T 20 năm tù, về tội “Giết người”; 05 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của 02 tội là 25 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 13/4/2022.

Xử phạt bị cáo Trần Tiến Đ 18 năm tù, về tội “Giết người”; 05 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của 02 tội là 23 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 13/4/2022.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Vy Minh L. Bản án hình sự sơ thẩm số 422/2023/HS-ST ngày 30/8/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đối với bị cáo Vy Minh L có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

3. Các bị cáo Phan Nhật H, Trần Minh T, Trần Tiến Đ mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

91
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 07/2024/HS-PT

Số hiệu:07/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;