Bản án về tội cố ý gây thương tích số 07/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 07/2022/HS-ST NGÀY 14/01/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 14 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện EaH’Leo xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 109/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 12 năm 2021.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 113/2021/QĐXXST – HS ngày 24 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Huỳnh Thanh M; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1989, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Tổ dân phố C, thị trấn E, huyện EH, tỉnh Đắk Lắk; Trình độ học vấn: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm nông; con ông Huỳnh Thanh Đ, sinh năm 1964 và bà Huỳnh Thị Diễm V, sinh năm 1969; Gia đình bị cáo có 03 người con, bị cáo là con thứ ba;

Tiền sự, tiền án: Không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 10/12/2020, đến ngày 19/01/2021, thay đổi biện pháp tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Ea H’Leo, có mặt.

- Bị hại: Nguyễn Văn P, sinh năm 1971.

Địa chỉ: Buôn B, thị trấn E, huyện EH, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

- Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Huỳnh Thanh Đ, vắng mặt.

Địa chỉ: Tổ dân phố C, thị trấn E, huyện EH, tỉnh Đắk Lắk,

2. Bà Ngô Thị Ng, vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Buôn B, thị trấn E, huyện EH, tỉnh Đắk Lắk;

3. Bà Hà Thị Đ1, vắng mặt.

Địa chỉ: Buôn B, thị trấn E, huyện EH, tỉnh Đắk Lắk;

- Người làm chứng:

Bà Nguyễn Thị L, có mặt.

Địa chỉ: Buôn B, thị trấn E, huyện EH, tỉnh Đắk Lắk;

Bà Nguyễn Thị H, có mặt.

Địa chỉ: Buôn B, thị trấn E, huyện EH, tỉnh Đắk Lắk;

Ông Nguyễn Văn X, vắng mặt.

Địa chỉ: Buôn B, thị trấn E, huyện EH, tỉnh Đắk Lắk;

Chị Chu Thị Hoài Th, vắng mặt.

Địa chỉ: Buôn B, thị trấn E, huyện EH, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trưa ngày 01/11/2020, Huỳnh Thanh M và chị Chu Thị Hoài Th (bạn gái M) cùng đi ăn đám giỗ ông nội của M ở buôn B, thị trấn E, huyện EH. Khoảng 16 giờ cùng ngày M và chị Th về nhà trọ của chị Th ở buôn B, thị trấn E, huyện EH. Sau đó, M đi mua thức ăn, khoảng 30 phút sau M về nhà trọ nghe chị Th kể lại anh Nguyễn Văn P dẫn theo một người đàn ông người đồng bào dân tộc thiểu số đến phòng trọ của chị Th gây chuyện. Nghe vậy, M xuống nhà bếp lấy con dao bằng kim loại mang đi tìm anh P đánh. Trên đường đi, M gặp bà Nguyễn Thị L (mẹ anh P) và chị Nguyễn Thị H (em gái anh P) thì giữa bà L, chị H với M có lời qua tiếng lại với nhau, nghe tiếng ồn ào, chị Th đến lấy con dao trên tay của M ném vào trong vườn cà phê gần đó, đồng thời kéo M về nhà trọ. Bà L và chị H xuống nhà anh P kể lại sự việc và hỏi nguyên nhân, thì anh P đội mũ bảo hiểm và cầm theo con dao dài 43cm, cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại, mũi dao nhọn đi đến phòng trọ của chị Th thì bà L và chị H đi theo sau. Tại đây, anh P gọi M để nói chuyện đồng thời cầm con dao chém vào cánh cửa phòng ngủ, lúc này M và chị Th đang ở bên trong phòng, thấy vậy M lấy con dao dài khoảng 40cm, cán và lưỡi bàng kim loại màu nâu - đen, lưỡi dao rộng khoảng 10cm, mũi dao bằng và dùng dao đập vỡ kính phòng ngủ từ phía bên trong rồi mở cửa chạy ra ngoài định chém anh P, thì anh P lùi lại phía sau, M cầm dao ném về phía anh P nhưng không trúng, rồi M bỏ chạy ra phía ngoài sân thì anh P cầm dao đuổi theo M ra đến ngoài sân. Ở ngoài sân, M nhìn thấy phía gần sát bờ tường có 01 cái cuốc dài 1,07 mét, cán bằng tre, lưỡi bằng kim loại dài 22cm, rộng 20cm cầm trên tay, anh P vừa chạy đến thì M cầm cuốc trở đầu lưỡi lên trên rồi vung đánh theo hướng từ phía trước vòng qua bên trái ra phía sau lưng trúng vào mũ bảo hiểm và trượt xuống vùng mặt bên trái của anh P làm anh P bất tỉnh. Sau đó, M vứt cuốc ở sân rồi đến Công an thị trấn E trình báo sự việc còn anh P được mọi người đưa đến Trung tâm y tế huyện E cấp cứu sau đó được chuyển đến Bệnh viện đa khoa Vùng T điều trị thương tích (bút lục số 100-147; 158-160; 169-223).

Tại hồ sơ bệnh án số: 20.063510, ngày 01 tháng 11 năm 2020 của Bệnh viện đa khoa Vùng T, xác định thương tích của Nguyễn Văn P như sau: Gãy xương gò má cung tiếp (T), vỡ xoang hàm (T)/vết thương phần mềm hàm mặt, rách mí mắt phức tạp.

Tại bản kết luận pháp y thương tích số: 1222/TgT-TTPY, ngày 25/11/2020, của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của anh Nguyễn Văn P do thương tích gây nên là: 24%, vật tác động: Vật sắc.

Tại bản kết luận giám định số: 859/GĐHS-PC09, ngày 25/8/2021, của Phòng kỹ thuật Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Trên cái cuốc và con dao gửi giám định không có máu người.

Tại bản kết luận giám định số: 957/VGTT, ngày 13/9/2021, của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Mẫu vật gửi đến giám định là 01 con dao có tổng chiều dài là 43,5cm, cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại cứng, có màu gần như màu đen (phần sát lưỡi và đầu có màu hơi trắng bạc), đầu mũi dao nhọn … mà Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk gửi đến Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk để giám định có kết quả như sau:

+ Lưỡi dao (phần cắt) dài 29,8cm, hơi cong lồi xuống dưới, là một vật sắc, cứng có khả năng gây ra được vết thương nhưng hình dạng vết thương đó khó có khả năng là vết thương có hình dạng cong (giống như hình của khoảng 1/3 vòng tròn có đường kính khoảng 05cm) như thương tích của Nguyễn Văn P.

+ Sống dao và cán dao là những vật tày có cạnh, cứng và không có khả năng gây ra đặc điểm thương tích như thương tích của Nguyễn Văn P.

Tại bản kết luận giám định số: 958/VGTT, ngày 13/9/2021, của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Mẫu vật gửi đến giám định là 01 cây cuốc có chiều dài tổng thể là 107cm, cán bằng cây tre, lưỡi bằng kim loại cứng, có màu giống màu đen dài 23cm … mà Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk gửi đến Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk để giám định xác định:

+ Lưỡi cuốc (chỗ để cuốc, đào) là một vật sắc, cứng có khả năng gây ra được vết thương có đặc điểm thương tích như sẹo hình cong dọc theo mi mắt trái, chạy ngang ra đuôi mắt tới gò má trái vòng xuống dưới má trái; gãy xương gò má cung tiếp trái; vỡ xoang hàm trái như trên thương tích của Nguyễn Văn P.

+ Các phần còn lại của cây cuốc là những vật tày và vật tày có cạnh, cứng không có khả năng gây ra đặc điểm thương tích như của Nguyễn Văn P.

+ So sánh khả năng gây ra thương tích của Nguyễn Văn P thì phần lưỡi của cây cuốc (có độ cong lồi lớn, được mài tương đối sắc,có một vài chỗ bị mẻ, dính xi măng và đất) có khả năng gây thương tích (có đặc điểm như thương tích của Nguyễn Văn P) cao hơn nhiều so với con dao đã được giám định và kết luận giám định tại Bản kết luận giám định vật gây ra thương tích số 957/VGTT, ngày 13/9/2021.

Tại bản cáo trạng số 01/CT – VKS ngày 08/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện EaH’Leo đã truy tố bị cáo Huỳnh Thanh M về tội cố ý gây thương tích, theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như diễn biến của cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố bị cáo. Bị cáo khai: Do bị hại có đến phòng trọ của chị Th là bạn gái của bị cáo gây sự, nên bị cáo đã mang dao đến nhà mẹ bị hại để gặp bị hại nói chuyện, nhưng không có bị hại ở đó, giữa bị cáo với mẹ và em gái của bị hại có cãi nhau, thì Th đến can ngăn nên bị cáo đi về. Bị cáo cùng Th về phòng trọ của Th để nghỉ, thì bị hại đội mũ bảo hiểm mang theo dao đến phòng trọ của Th gây sự với bị cáo. Bị hại cầm con dao chém vào cánh cửa phòng ngủ, nên bị cáo dùng dao đập kính phòng ngủ rồi mở cửa chạy ra ngoài, bị cáo cầm dao ném để dọa bị hại. Bị hại cầm dao đuổi theo bị cáo, khi chạy ra sân bị cáo thấy có cái cuốc dựng ở sân nên đã dùng cuốc đánh vào mặt bị hại gây thương tích cho bị hại, sau bị cáo đến Công an thị trấn E báo cáo sự việc.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội do bị cáo gây ra và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo bản cáo trạng số 01/CT – VKS ngày 08/12/2021, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Thanh M phạm tội “Cố ý gây thương tích”;

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Huỳnh Thanh M từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 584; Điều 590 Bộ luật dân sự; chấp nhận việc bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho anh Nguyễn Văn P số tiền 4.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; tuyên tịch thu tiêu hủy 01 cây cuốc; 01 con dao; 01 mũ bảo hiểm màu trắng - đỏ có chữ HD Bank là vật chứng của vụ án.

Bị cáo không tranh luận gì với kết luận buộc tội và mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2]. Tại phiên tòa vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án mà không yêu cầu Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án, vì sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử hội ý và quyết định tiếp tục phiên tòa.

[2] Về hành vi pham tội của bị cáo:

[2.1] Tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và phù hợp với chứng cứ đã được thu thập lưu tại hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở pháp lý để kết luận: Vào khoảng 16 giờ ngày 01/11/2020, tại buôn B, thị trấn E, huyện EH, tỉnh Đắk Lắk; Huỳnh Thanh M đã thực hiện hành vi dùng cuốc là hung khí nguy hiểm đánh vào mặt của anh Nguyễn Văn P, gây thương tích cho anh Phúc với tỷ lệ tổn thương cơ thể được xác định là 24%.

Vì vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích”, theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Tại Điều luật nêu trên quy định:

“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.

…” [2.2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến sức khỏe của anh Nguyễn Văn P một cách trái pháp luật mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo biết được việc làm của mình là vi phạm pháp luật; song do ý thức coi thường sức khỏe của người khác, coi thường Pháp luật nên bị cáo đã cố ý thực hiện. Vì vậy, cần buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình, cân áp dụng đối với bi cao mưc hinh phat tương xứng , tiếp tục cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian, nhằm trừng trị người phạm tội, đồng thời để bị cáo có thời gian cải tạo, rèn luyện mình trở thành người công dân tốt, có ý thức chấp hành pháp luật. Mặt khác, phát huy tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm tại địa phương nói riêng, trên toàn xã hội nói chung.

[3]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

sự.

[3.1]. Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền [3.2] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình. Sau khi phạm tội bị cáo đã đến Cơ quan Công an để đầu thú. Bị cáo đã tác động gia đình bồi thường, khắc phục hậu quả cho bị hại. Sự việc xảy ra cũng do một phần lỗi của bị hại, đã đến phòng trọ của chị Th tìm và gây sự với bị cáo. Bị hại đã làm đơn bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự Hội đồng xét xử cần xém xét, cân nhắc khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Nhận thấy, bị cáo được hưởng hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó, cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Các biện pháp tư pháp:

[4.1] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa bị hại xác định bị hại đã chi phí điều trị thương tích hết trên 6.000.000 đồng, nhưng không liệt kê các khoản cụ thể. Quá trình điều tra vụ án gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho bị hại số tiền 4.000.000 đồng. Việc gia đình bị cáo bồi thường thiệt hại cho bị hại là tự nguyện, phù hợp quy định của pháp luật, nên cần chấp nhận. Quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa, bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm bất kỳ khoản nào khác về trách nhiệm dân sự, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Đối với tấm kính cửa phòng trọ bị vỡ là tài sản của bà Ngô Thị Ng. Quá trình giải quyết vụ án, bà Ng xác định tấm kính bị hư hỏng là tài sản của gia đình bà, xong tấm kính có giá trị nhỏ nên bà không yêu cầu bồi thường thiệt hại. Do đó, Hội đồng xét xử không đề cập, xem xét.

Đối với số tiền gia đình bị cáo bồi thường cho bị hại là của ông Huỳnh Thanh Đ. Quá trình giải quyết vụ án, ông Đ không yêu cầu giải quyết đối với số tiền trên, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[4.2] Về xử lý vật chứng:

Quá trình điều tra vụ án, xác định cái cuốc bị cáo dùng để gây thương tích cho bị hại là của bà Hà Thị Đ1. Việc bị cáo dùng cái cuốc gây thương tích cho bị hại bà Đ1 không biết. Nay bà không có nhu cầu sử dụng cái cuốc nói trên và đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật. Do đó, tịch thu tiêu hủy 01 cái cuốc; 01 con dao; 01 mũ bảo hiểm là vật chứng của vụ án.

[5] Về án phí: Bị cáo Huỳnh Thanh M phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Thanh M phạm tội “Cố ý gây thương tích”;

[2] Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Huỳnh Thanh M 01 (một) năm 06 (sáu ) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 19/01/2021).

[3] Các biện pháp tư pháp:

[3.1] Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 584; Điều 590 Bộ luật dân sự;

Ghi nhận việc gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho anh Nguyễn Văn P số tiền 4.000.000 đồng. Anh Nguyễn Văn P không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm bất kỳ khoản nào khác về trách nhiệm dân sự, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[3.2] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy 01 cái cuốc; 01 con dao; 01 mũ bảo hiểm là vật chứng của vụ án.

(Đặc điểm vật chứng được mô tả tại biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu và biên bản giao nhận đồ vật tài liệu lưu tại Hồ sơ vụ án).

[3] Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo Huỳnh Thanh M phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 07/2022/HS-ST

Số hiệu:07/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;