Bản án về tội cố ý gây thương tích số 02/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHƯỚC, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 02/2023/HS-ST NGÀY 01/02/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 01 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 97/2022/TLST- HS, ngày 23 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2023/QĐXXST-HS ngày 03tháng 01 năm 2023 đối với bị cáo:

Trương Hoài P, sinh năm 1974, tại huyện T, tỉnh B; nơi cư trú: Thôn L, xã P, huyện T, tỉnh B; nghề nghiệp: Thợ xây; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Công T và bà Lê Thị S; bị cáo có vợ nhưng đã ly hôn và 03 con; tiền án; tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại; có mặt.

Bị hại: Bà Trần Thị Mỹ L, sinh năm 1978; địa chỉ: Thôn L, xã P, huyện T, tỉnh B; có mặt.

Người làm chứng: Ông Phạm Minh H, sinh năm 1974; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ 00 phút ngày 24 tháng 4 năm 2022, ông Phạm Minh H gọi điện rủ bà Trần Thị Mỹ L đến nhà ông H để chơi và ăn uống, bà L đồng ý. Đến khoảng 18h00’ cùng ngày, bà L chạy xe máy một mình đến nhà ông H. Khi bà L đi xe đến cầu G thuộc thôn T, xã P, huyện T, tỉnh B thì Trương Hoài P là chồng bà L phát hiện nên chạy theo xe của bà L. Thấy bà L đi vào nhà ông H, cho rằng bà L đi ngoại tình nên P lấy khúc cây tre dài khoảng 70 cm, đường kính khoảng 3cm ở gần nhà ông H đi đến chỗ bà L. Tại đây, P dùng một tay nắm tóc bà L, tay còn lại cầm khúc cây tre đánh nhiều cái vào người bà L gây thương tích, rồi bỏ đi. Sau đó, bà L đến Trung tâm y tế huyện T nằm viện điều trị từ ngày 24 tháng 4 năm 2022 đến ngày 29 tháng 4 năm 2022 thì xuất viện.

Theo Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 183/2022/PY-TgT ngày 14/7/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh B kết luận thì tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại của bà Trần Thị Mỹ L là 03%.

Về vật chứng: Trong quá trình điều tra, Trương Hoài P khai đã sử dụng 01 (một) khúc cây tre dài khoảng 70cm, đường kính khoảng 03cm, có một đầu nhọn để đánh bà Trần Thị Mỹ L gây thương tích. Sau khi đánh bà L, P đã vứt cây tre này tại khu vực gần nhà ông Phạm Minh H nhưng không nhớ vị trí cụ thể. Ngày 09/5/2022, Công an xã Phước Sơn, huyện T đã tiến hành xác minh, truy tìm khúc cây tre này nhưng không phát hiện, thu giữ được.

Về phần dân sự: Bà Trần Thị Mỹ L yêu cầu Trương Hoài P bồi thường số tiền 6.250.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 63/CT-VKS-TP ngày 14 tháng 11 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh B đã truy tố bị cáo Trương Hoài P về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phân tích lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị hại, của người làm chứng, các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định bị cáo Trương Hoài P đã phạm vào tội như tại Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điều khoản để quyết định hình phạt đối với bị cáo, cụ thể:

Đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trương Hoài P từ 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo.

Tại phiên tòa, bị hại đề nghị xét xử theo quy định của pháp luật và bồi thường thiệt hại.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin Tòa xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, của người làm chứng, phù hợp với các vật chứng vụ án được thu giữ, bản ảnh, kết luận giám định pháp y về thương tích và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát thu thập đã được thẩm tra tại phiên tòa nên có đầy đủ căn cứ xác định: Trương Hoài P là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự để nhận thức và biết được rằng hành vi cố ý gây thương tích cho người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn bất chấp để thực hiện hành vi phạm tội, cụ thể: Vào ngày 24 tháng 4 năm 2022, tại thôn L, xã P, huyện T, tỉnh B, Trương Hoài P đã có hành vi dùng khúc cây tre đánh nhiều cái vào người bà Trần Thị Mỹ L gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 03%. Vì khúc cây tre là vật cứng nên là hung khí nguy hiểm nên hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội.

[3] Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có 03 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại”, “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” theo quy định tại điểm b, i và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Xét tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có đủ khả năng nhận thức được hành vi cố ý gây thương tích cho người khác là vi phạm pháp luật, nhận thức được hậu quả của hành vi đó là xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của người khác. Nhận thức được vậy nhưng vì ý thức xem thường pháp luật nên bị cáo vẫn thực hiện. Do đó, cần phải xử phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo là người có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng, có khả năng tự cải tạo, việc áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là cần thiết nhưng nếu không bắt bị cáo đi chấp hành hình phạt tù thì cũng không ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Nên áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mà cho bị cáo được hưởng án treo dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương nơi cư trú cũng đảm bảo mục đích trừng trị, giáo dục bị cáo và thể hiện được tính nhân đạo của pháp luật.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại yêu cầu bồi thường số tiền 6.250.000 đồng. Bị cáo đồng ý bồi thường toàn bộ số tiền này nên được ghi nhận.

[6] Về vật chứng: Quá trình điều tra không thu giữ được vật chứng.

[7] Về án phí: Theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Trương Hoài P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp vào Ngân sách Nhà nước.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 134, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 47, Điều 65 của Bộ luật hình sự; Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Tuyên bố bị cáo Trương Hoài P phạm tội Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt bị cáo Trương Hoài P 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Trương Hoài P cho Ủy ban nhân dân xã Phước Thắng, huyện T, tỉnh B giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp bị cáo Trương Hoài P thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về dân sự: Bị cáo Trương Hoài P bồi thường cho bà Trần Thị Mỹ L số tiền 6.250.000 (sáu triệu hai trăm năm mươi nghìn) đồng.

Tiếp tục tạm giữ số tiền 6.250.000 (sáu triệu hai trăm năm mươi nghìn) đồng bị cáo đã nộp theo biên lai thu tiền số 0001943 ngày 28 tháng 11 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T để đảm bảo thi hành án.

3. Về án phí: Bị cáo Trương Hoài P phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp vào Ngân sách nhà nước.

4. Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 02/2023/HS-ST

Số hiệu:02/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phước - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;