TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐÔNG HÒA, TỈNH PHÚ YÊN
BẢN ÁN 42/2021/HS-ST NGÀY 30/09/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI SỨC KHỎE CHO NGƯỜI KHÁC
Ngày 30 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Đông Hòa, tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 41/2021/TLST- HS ngày 09 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2021QĐXXST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:
Ngô Ngọc Q, sinh năm 1978, tại tỉnh Phú Yên (tên gọi khác: không); nơi đăng ký thường trú và cư trú: khu phố PH, phường HHT, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: thợ xây (thợ hồ); trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; cha: Ngô Ngọc Â, sinh năm 1924; mẹ: Huỳnh Thị N, sinh năm 1941; anh, em ruột: có 06 người, bị cáo là con thứ 4; vợ: Nguyễn Thị L, sinh năm 1978; có 02 con: nhỏ sinh năm 2008, lớn sinh năm 1999; tiền án: ngày 05/6/2001, bị Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xử phạt 09 năm tù về tội “Hiếp dâm”; ngày 01/02/2005, được đặc xá tha tù trước thời hạn, nhưng chưa chấp hành xong nghĩa vụ bồi thường dân sự số tiền 2.000.000 đồng cho bị hại; tiền sự: không; nhân thân: ngày 31/5/2013, bị Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 07 năm 6 tháng tù về tội “Cướp tài sản” - chấp hành xong ngày 10/01/2018. Bị cáo bị tạm giam ngày 10/4/2021, có mặt tại phiên tòa.
* Bị hại: Nguyễn Thị Kim D, sinh năm 1985; nơi cư trú: Khu phố B, phường H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên (vắng mặt).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Nguyễn Thị L, sinh năm 1978; nơi cư trú: thôn XT, xã HTT, huyện T, tỉnh Phú Yên (vắng mặt).
* Người làm chứng:
1. Nguyễn Hữu Tr, sinh năm 1999; nơi cư trú: khu phố N, phường HXT, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên (có mặt).
2. Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1997 (vắng mặt).
3. Nguyễn Văn K, sinh năm 1996 (có mặt).
Cùng trú tại: Khu phố B, phường H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 00 giờ 15 phút ngày 10/4/2021, Ngô Ngọc Q điều khiển xe mô tô biển số 78G1-540.42 (do Q đứng tên chủ sở hữu) đi trên đường nội bộ Khu phố 4, phường Hòa Vinh, thị xã Đông Hòa theo hướng Bắc – Nam thì thấy chị Nguyễn Thị Kim D (bị hại) đang điều khiển xe mô tô biển số 78G1-212.68 đi phía trước cùng chiều. Q nảy sinh ý định sàm sỡ (bóp vú) chị D để thỏa mãn dục vọng cá nhân nên điều khiển xe chạy lên phía trước ép sát bên trái và chặn đầu xe mô tô chị D. Q xuống xe dùng tay phải bóp vú thì bị chị D gạt ra, Q dùng tay đánh nhiều cái vào đầu và chụp cổ vật ngã chị D xuống vỉa hè, ngồi đè lên người chị D và tiếp tục dùng tay bóp cổ, bóp vú chị D. Lúc này ông Nguyễn Hữu Tr và Nguyễn Ngọc T chạy ngang qua thấy Q đang đè lên người và dùng tay bóp cổ chị D nên quay lại thì nghe tiếng chị D hô la “cứu, cứu”; T nói “ông làm gì vậy” thì Q dừng lại, đứng dậy định bỏ chạy thì bị T, Tr bắt giữ và giao cho Công an thị xã Đông Hòa.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 113/TgT ngày 10/4/2021 và Bản kết luận giám định pháp y về thương tích (bổ sung) số 151/TgT ngày 28/5/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Phú Yên kết luận: Nguyễn Thị Kim D bị thương tích 16%, do vật tày + vật tày có cạnh gây ra.
Về dân sự: bị hại Nguyễn Thị Kim D có đơn yêu cầu bồi thường số tiền 45.400.000 đồng, bị cáo chưa bồi thường.
Tại bản cáo trạng số: 43/CT-VKSĐH ngày 08 tháng 9 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Đông Hòa truy tố Ngô Ngọc Q về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015.
Tại phiên tòa:
- Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố là đúng tội, xin được giảm nhẹ hình phạt.
- Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên truy tố theo Cáo trạng số: 43/CT-VKSĐH ngày 08 tháng 9 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Đông Hòa. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Ngô Ngọc Q 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/4/2021. Đối với hành vi dâm ô của Ngô Ngọc Q, Công an thị xã Đông Hòa đã xử phạt hành chính số tiền 300.000 đồng về hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác nên không xem xét.
Về xử lý vật chứng vụ án:
Tạm giữ: 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, số 002540, biển số 78G1-540.42 do Ngô Ngọc Q đứng tên chủ sở hữu; 01 (một) xe mô tô biển số 78G1-540.42, nhãn hiệu Future FI, màu sơn đỏ nâu đen, số khung: 7655LY046615, số máy: JC90E0062274 để đảm bảo thi hành án.
Hoàn trả: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu đỏ; 01 Giấy phép lái xe hạng A1, số 540063852652 ngày 04/11/2020 do Sở Giao thông vận tải tỉnh Phú Yên cấp cho Ngô Ngọc Q.
Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) áo sơ mi dài tay, màu trắng, có kẻ ca rô ô vuông; 01 (một) quần sọt jean màu xanh, có lô gô màu trắng, trên lô gô có dòng chữ “JEAN” màu đỏ; 01 (một) áo khoát dài tay, màu xám; 01 (một) mũ bảo hiểm, màu đỏ, trên mũ có dòng chữ “HOA BINH MINH MOTOR CYCLE”; 01 (một) chiếc dép nhựa (loại dép nam chân bên phải), màu nâu đen, hiệu TMT; 01 (một) áo thun ngắn tay, màu hồng, cổ chui, size L, trước ngực có dòng chữ Diork Park, màu vàng, đen, mặt trước cổ đến vùng ngực trái có bám dính tạp chất màu nâu đen diện (25x7)cm, vùng dưới mặt trước áo có dính tạp chất màu nâu đen diện (18x16)cm, mặt sau dưới bên hông phải có bám đính tạp chất màu nâu đen diện (9x5)cm; 01 (một) áo ngực, màu trắng, size 34/75, hiệu Sister hood, đầu trước dây ngực trái phần kim loại bị gãy rời vị trí cố định; 01 (một) quần jean dài, màu xanh, size 30, hiệu 76 mei, mặt trước và mặt sau quần bám nhiều tạp chất màu nâu (tập trung chủ yếu ở vùng gối), mặt trong cúc quần bị công vênh hướng từ ngoài vào trong.
Về trách nhiệm dân sự: Ngô Ngọc Q phải tiếp tục bồi thường 15.400.000 đồng cho bị hại Nguyễn Thị Kim D.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Đông Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Đối với việc vắng mặt của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng đã có lời khai, không làm ảnh hưởng đến việc xét xử. Căn cứ Điều 292, 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án.
[3] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên toà, bị cáo Ngô Ngọc Q thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và phù hợp với biên bản và bản ảnh xem xét dấu vết trên thân thể, khám nghiệm hiện trường, kết luận giám định pháp y về thương tích và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, đủ căn cứ kết luận: Khoảng 00 giờ 15 phút ngày 10/4/2021, tại đường nội bộ Khu phố B, phường H, thị xã Đ, Ngô Ngọc Q có hành vi dùng vũ lực mang tính chất côn đồ, dùng tay đánh nhiều cái vào đầu, bóp cổ vật ngã chị D xuống vỉa hè để bóp vú chị D, gây thương tích cho chị D 16%.
Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm và làm thiệt hại đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác mà pháp luật bảo vệ. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình đã gây ra. Đối với hành vi xâm phạm nhân phẩm, danh dự cho bị hại D của bị cáo Q (bóp vú) đã bị xử phạt hành chính, không xử lý tội làm nhục người khác là có căn cứ. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Hòa đã truy tố bị cáo Ngô Ngọc Q phạm tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác” theo quy định điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[4] Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: chỉ vì động cơ, mục đích đê hèn (thỏa mãn dục vọng cá nhân) mà bị cáo bất chấp quy định pháp luật, dùng vũ lực mang tính côn đồ để trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, gây tổn hại 16% thương tích cho bị hại D, cần phải xử lý nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra, nên cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có đủ tác dụng giáo dục trực tiếp đối với bị cáo, đồng thời còn có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.
[5] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với tình tiết tăng nặng – phạm tội vì động cơ đê hèn, chỉ vì thỏa mãn dục vọng cá nhân mà bị cáo đã dùng vũ lực gây thương tích cho bị hại. Bị cáo có 01 tiền án về tội “Hiếp dâm” theo Bản án số 323/2001/PTHS ngày 05/6/2001 của Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xử phạt 09 năm tù, đã chấp hành xong hình phạt tù nhưng chưa chấp hành xong nghĩa vụ bồi thường dân sự số tiền 2.000.000 đồng cho bị hại, nên lần phạm tội này là tái phạm như Viện kiểm sát truy tố là đúng pháp luật.
Ngoài ra, ngày 31/5/2013, bị cáo bị Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 07 năm 6 tháng tù về tội “Cướp tài sản” - chấp hành xong. Bị cáo có nhân thân xấu, đã 02 lần chấp hành án phạt tù nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tự sửa chữa, rèn luyện, tu dưỡng bản thân, phấn đấu trở thành người công dân có ích cho xã hội mà bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.
Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình; và trong quá trình chuẩn bị xét xử bị cáo đã tác động để gia đình bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại số tiền 30.000.000 đồng nên khi lượng hình Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo nh m giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với bị cáo để bị cáo an tâm cải tạo.
[6] Mức hình phạt đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Thị Kim D yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại số tiền 45.400.000 đồng (gồm: chi phí điều trị: 2.000.000 đồng – có chứng từ; tổn thất, thiệt hại tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm: 30.000.000 đồng; tổn thất, thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm: 13.400.000 đồng) là phù hợp theo quy định tại Điều 590, Điều 592 Bộ luật Dân sự 2015. Bị cáo Ngô Ngọc Q đồng ý bồi thường số tiền 45.400.000 đồng cho bị hại nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện bồi thường của bị cáo đối với số tiền mà bị hại đã yêu cầu. Bà Nguyễn Thị L (vợ của bị cáo) tự nguyện cùng bị cáo bồi thường thiệt hại cho bị hại số tiền 30.000.000 đồng, nên bị cáo Q còn phải tiếp tục bồi thường thiệt hại số tiền 15.400.000 đồng cho chị D.
[8] Về vật chứng vụ án:
[8.1] Đối với vật chứng là 01 (một) xe mô tô biển số 78G1-540.42, nhãn hiệu Future FI, màu sơn đỏ nâu đen, số khung: 7655LY046615, số máy: JC90E0062274, bà Nguyễn Thị L có ý kiến đây là tài sản riêng của bị cáo Ngô Ngọc Q, không yêu cầu giải quyết. Bị cáo Q chưa bồi thường hết thiệt hại cho chị Nguyễn Thị Kim D, nên cần tạm giữ: 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, số 002540, biển số 78G1-540.42 do Ngô Ngọc Q đứng tên chủ sở hữu; 01 (một) xe mô tô biển số 78G1-540.42, nhãn hiệu Future FI, màu sơn đỏ nâu đen, số khung: 7655LY046615, số máy: JC90E0062274 để đảm bảo thi hành án.
[8.2] Đối với: 01 (một) áo sơ mi dài tay, màu trắng, có kẻ ca rô ô vuông; 01 (một) quần sọt jean màu xanh, có lô gô màu trắng, trên lô gô có dòng chữ “JEAN” màu đỏ; 01 (một) áo khoát dài tay, màu xám; 01 (một) mũ bảo hiểm, màu đỏ, trên mũ có dòng chữ “HOA BINH MINH MOTOR CYCLE”; 01 (một) chiếc dép nhựa (loại dép nam chân bên phải), màu nâu đen, hiệu TMT; 01 (một) áo thun ngắn tay, màu hồng, cổ chui, size L, trước ngực có dòng chữ Diork Park, màu vàng, đen, mặt trước cổ đến vùng ngực trái có bám dính tạp chất màu nâu đen diện (25x7)cm, vùng dưới mặt trước áo có dính tạp chất màu nâu đen diện (18x16)cm, mặt sau dưới bên hông phải có bám dính tạp chất màu nâu đen diện (9x5)cm; 01 (một) áo ngực, màu trắng, size 34/75, hiệu Sister hood, đầu trước dây ngực trái phần kim loại bị gãy rời vị trí cố định; 01 (một) quần jean dài, màu xanh, size 30, hiệu 76 mei, mặt trước và mặt sau quần bám nhiều tạp chất màu nâu (tập trung chủ yếu ở vùng gối), mặt trong cúc quần bị cong vênh hướng từ ngoài vào trong. Đây là những vật không có giá trị và không sử dụng được nên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
[8.3] Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu đỏ đang tạm giữ, không phải vật chứng vụ án, nên trả lại cho Ngô Ngọc Q.
[8.4] Hoàn trả 01 Giấy phép lái xe hạng A1, số 540063852652 ngày 04/11/2020 do Sở Giao thông vận tải tỉnh Phú Yên cấp cho Ngô Ngọc Q.
Vật chứng vụ án có tình trạng, đặc điểm như mô tả tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 09/9/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Đông Hòa, tỉnh Phú Yên với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Đông Hòa, tỉnh Phú Yên.
[9] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 770.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm (15.400.000đ x 5%).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: bị cáo Ngô Ngọc Q phạm tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác”.
1. Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51, điểm đ, h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: bị cáo Ngô Ngọc Q 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/4/2021.
2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự; các Điều 584, 590 và 592 Bộ luật Dân sự. Buộc bị cáo Ngô Ngọc Q phải tiếp tục bồi thường số tiền 15.400.000đ (mười lăm triệu bốn trăm nghìn đồng) cho chị Nguyễn Thị Kim D.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa thi hành xong khoản tiền trên thì hàng tháng phải chịu khoản tiền lãi theo quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự, tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.
3. Về vật chứng: áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
3.1. Tiếp tục tạm giữ 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, số 002540, biển số 78G1-540.42 do Ngô Ngọc Q đứng tên chủ sở hữu; 01 (một) xe mô tô biển số 78G1-540.42, nhãn hiệu Future FI, màu sơn đỏ nâu đen, số khung: 7655LY046615, số máy: JC90E0062274, đã niêm phong, không kiểm tra tình trạng bên trong để đảm bảo thi hành án.
3.2. Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) áo sơ mi dài tay, màu trắng, có kẻ ca rô ô vuông; 01 (một) quần sọt jean màu xanh, có lô gô màu trắng, trên lô gô có dòng chữ “JEAN” màu đỏ; 01 (một) áo khoát dài tay, màu xám; 01 (một) mũ bảo hiểm, màu đỏ, trên mũ có dòng chữ “HOA BINH MINH MOTOR CYCLE”; 01 (một) chiếc dép nhựa (loại dép nam chân bên phải), màu nâu đen, hiệu TMT; 01 (một) áo thun ngắn tay, màu hồng, cổ chui, size L, trước ngực có dòng chữ Diork Park, màu vàng, đen, mặt trước cổ đến vùng ngực trái có bám dính tạp chất màu nâu đen diện (25x7)cm, vùng dưới mặt trước áo có dính tạp chất màu nâu đen diện (18x16)cm, mặt sau dưới bên hông phải có bám dính tạp chất màu nâu đen diện (9x5)cm; 01 (một) áo ngực, màu trắng, size 34/75, hiệu Sister hood, đầu trước dây ngực trái phần kim loại bị gãy rời vị trí cố định; 01 (một) quần jean dài, màu xanh, size 30, hiệu 76 mei, mặt trước và mặt sau quần bám nhiều tạp chất màu nâu (tập trung chủ yếu ở vùng gối), mặt trong cúc quần bị cong vênh hướng từ ngoài vào trong.
3.3. Hoàn trả: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu đỏ, đã niêm phong, không kiểm tra tình trạng bên trong; và 01 (một) Giấy phép lái xe hạng A1, số 540063852652 ngày 04/11/2020 (do Sở Giao thông vận tải tỉnh Phú Yên cấp) cho bị cáo Ngô Ngọc Q.
Vật chứng vụ án có tình trạng, đặc điểm như mô tả tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 09/9/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Đông Hòa, tỉnh Phú Yên với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Đông Hòa, tỉnh Phú Yên.
4. Về án phí: áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a, c khoản 1 Điều 23, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Bị cáo Ngô Ngọc Q phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 770.000đ (bảy trăm bảy mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
5. Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6; 7; 7a; 7b; 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Ngô Ngọc Q có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại Nguyễn Thị Kim D và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Nguyễn Thị L được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết
Bản án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác số 42/2021/HS-ST
Số hiệu: | 42/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Đông Hòa - Phú Yên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về