TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC GIANG, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 84/2023/HS-ST NGÀY 15/06/2023 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM
Ngày 15 tháng 6 năm 2023 tại Điểm cầu trung tâm Tòa án nhân dân tỉnh B; Điểm cầu thành phần Trại tạm giam Công an tỉnh B.
Toà án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 76/2023/TLST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 84/2023/QĐXXST- HS ngày 01/6/2023 đối với bị cáo:
Lê Thị N, sinh năm 1954; Tên gọi khác: Không, Nơi đăng ký thường trú: Tổ 16, khu 2, phường Hà Khẩu, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Chỗ ở: Thôn Ba, xã Tân Mỹ, thành phố B, tỉnh B. Nghề nghiệp: Tự do. Văn hóa 05/10. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh.Tôn giáo: Không. Giới tính: Nữ. Bố: Lê Văn T, đã chết. Mẹ: Nguyễn Thị N, đã chết. Gia đình có 02 chị em, bị cáo là thứ hai. Chồng: Phạm Anh T, sinh năm 1947, đã chết. Có 01 con sinh năm 1972. Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Bản án số 220/HSST ngày 18/8/1997,bị Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 30 tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy Bản án số 172/2006/HSST ngày 25/5/2006, bị Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 4 tháng 21 ngày tù về tội đánh bạc.
Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/3/2023, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B - Có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Cao Anh C, sinh năm 1975(vắng mặt).
Địa chỉ: Tổ dân phố Tiền Môn II, phường Lê Lợi, thành phố B, tỉnh B
2. Anh Chu Đình Th, sinh năm 1973 (vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn Can, xã Hương Gián, huyện Yên Dũng, tỉnh B.
3. Chị Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1979 (vắng mặt).
Địa chỉ: Tổ dân phố số 4, thị trấn Tam Sơn, huyện Quản Bạ, tỉnh H.
4. Chị Lê Thị M, sinh năm 1979 (vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn Cầu Gai, xã Nam Hòa, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.
5. Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1974(vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn Mỹ Cầu, xã Tân Mỹ, thành phố B, tỉnh B.
6. Chị Phạm Hồng Ng, sinh năm 1994(vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn Ba, xã Tân Mỹ, thành phố B, tỉnh B.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Tháng 6 năm 2019, Lê Thị N, sinh năm 1954, đăng ký thường trú tại tổ 16, phường Hà Khẩu, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh chuyển đến xã Tân Mỹ, thành phố B, tỉnh B sinh sống và thuê của chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1974, trú tại thôn Mỹ Cầu, xã Tân Mỹ, thành phố B một căn nhà mặt đường Võ Nguyên Giáp, thuộc thôn Ba, xã Tân Mỹ, thành phố B với mục đích để mở quán cafe thư giãn nhưng thực chất là cho thuê phòng chứa mại dâm. Tại quán của N có tất cả 04 phòng được ngăn cách bằng ván ép, trong đó có 02 phòng được trang bị đệm, đèn ngủ bên trong nhằm phục vụ việc chứa mại dâm. Phòng còn lại, N sử dụng để sinh hoạt cá nhân. Hàng ngày, N mở cửa đón khách từ 18 giờ đến 23 giờ. N thu của khách mua dâm từ 200.000 đồng đến 250.000 đồng/01 lượt, trong đó N trả cho gái bán dâm từ 100.000 đồng đến 120.000 đồng, số tiền còn lại N thu lợi.
Khoảng 22 giờ, ngày 03/3/2023, Cao Anh C, sinh năm 1975, trú tại tổ dân phố Tiền Môn II, phường Lê Lợi, thành phố B, tỉnh B và Chu Đình Th, sinh năm 1973, trú tại thôn Can, xã Hương Gián, huyện Yên Dũng, tỉnh B cùng thống nhất với nhau đi mua dâm. Sau đó, C và Th đi đến quán cafe thư giãn không có biển hiệu do Lê Thị N làm chủ và yêu cầu N gọi cho 02 gái bán dâm. N đồng ý và yêu cầu C, Th đưa 250.000 đồng/01 người/01 lượt mua dâm. Do không có tiền lẻ nên C và Th mỗi người đưa cho N 300.000 đồng. Số tiền thừa 50.000 đồng của mỗi người, N hẹn sẽ trả lại sau khi mua bán dâm xong. Thỏa thuận xong, N điện thoại cho Lê Thị M, sinh năm 1979, đăng ký cư trú tại thôn Cầu Gai, xã Nam Hòa, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, chỗ ở thôn Ba, xã Tân Mỹ, thành phố B là nhân viên của quán về nhưng không liên lạc được. Sau đó, N đã gọi cho cháu ruột là Phạm Hồng Ng, sinh năm 1994, tạm trú tại thôn Ba, xã Tân Mỹ, thành phố B, nơi thường trú tại tổ 16, phường Hà Khẩu, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh để hỏi M có ở nhà Ng hay không thì được Ng cho biết M đang ở nhà Ng. N nhờ Ng nhắn cho M về, đồng thời, N bảo Ng cho Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1979, nơi thường trú tại tổ 4, thị trấn Tam Sơn, huyện Quản Bạ, tỉnh H, chỗ ở thôn Ba, xã Tân Mỹ, thành phố B, là người giúp việc cho Ng xuống quán N nhờ chút việc. Sau khi được Ng bảo, Ng đi xuống quán của N trước còn M đi về sau. Khi Ng đi vào, N nói với Ng "cháu ơi đi khách nhé" thì Ng trả lời "vâng" rồi đi thẳng vào một phòng trong nhà để bán dâm. Th đi vào phòng theo Ng ngay sau đó. Một lúc sau, M đi về. N nói với M "nhà có khách đấy", M không nói gì đi thẳng vào trong phòng của M để bán dâm và C theo M vào phòng.
Đến 22 giờ 40 phút cùng ngày 03/3/2023, trong lúc Th đang quan hệ tình dục với Ng và C đang quan hệ tình dục với M thì tổ công tác Công an thành phố B tiến hành kiểm tra, phát hiện các đối tượng về hành vi mua bán dâm. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lê Thị N về hành vi chứa mại dâm, tang vật thu giữ gồm:
- Số tiền 500.000 đồng gồm: 01 (một) tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng có số seri là HP 21820376; 02 (hai) tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng, có số seri là VG 16550546 và NX 20919098, do Lê Thị N giao nộp và khai nhận là tiền mua dâm của C và Th, được cho vào một phong bì thư kí hiệu "Tiền mua dâm" dán kín, niêm phong tại chỗ.
- Số tiền 230.000 đồng gồm: 02 (hai) tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng, 01 (một) tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng và 01 (một) tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng, do Lê Thị N tự giác giao nộp, được cho vào một phong bì thư kí hiệu "Tiền của N" dán kín, niêm phong tại chỗ.
- 01 (một) vỏ bao cao su đã qua sử dụng và 01 (một) bao cao su đã qua sử dụng, thu giữ trên giường, trong phòng của C và M, được cho vào một phong bì thư kí hiệu "bao cao su của chiến" dán kín, niêm phong tại chỗ.
- 01 (một) vỏ bao cao su đã qua sử dụng, thu giữ trên giường và 01 (một) bao cao su đã qua sử dụng, thu giữ tại dương vật của Th, trong phòng của Th và Ng, được cho vào một phong bì thư kí hiệu "bao cao su của Thắng" dán kín, niêm phong tại chỗ.
- 01 (một) điện thoại đã qua sử dụng nhãn hiệu SamSung Galaxy A11, vỏ màu trắng, số Imei 1 là 356983142154849, số Imei 2 là 356489842154846, lắp số thuê bao 0393706941 tạm giữ của N.
- 01 (một) điện thoại đã qua sử dụng nhãn hiệu SamSung, vỏ màu đen, số Imei 1 là 350165823539231, số Imei 2 là 350393173539235, lắp số thuê bao 033590xxxx, tạm giữ của M.
- 01 (một) điện thoại đã qua sử dụng nhãn hiệu OPPO A31, vỏ màu xanh, lắp số thuê bao 0975701780; 01 (một) điện thoại đã qua sử dụng nhãn hiệu SamSung A12, tạm giữ của Ng.
Tại Cơ quan điều tra, Lê Thị N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân dâm như nội dung vụ việc nêu trên. N không thỏa thuận, bàn bạc gì với Ng về việc tổ chức cho M và Ng bán dâm.
Đối với hành vi của Cao Anh C, Chu Đình Th; Nguyễn Thị Ng, Lê Thị M. Ngày 05/5/2023, Trưởng Công an thành phố B đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với C, Th về hành vi mua dâm và Ng, M về hành vi bán dâm.
Đối với chị Nguyễn Thị L cho Lê Thị N thuê nhà, nhưng không biết việc N chứa mại dâm nên không xem xét xử lý.
Đối với Phạm Hồng Ng là người cháu nội của Lê Thị N, Ng không biết, không thỏa thuận, bàn bạc gì với N về việc tổ chức cho M và Ng bán dâm nên không xem xét xử lý.
Vật chứng của vụ án gồm: Đối với 01 (một) điện thoại đã qua sử dụng nhãn hiệu SamSung, vỏ màu đen, tạm giữ của M; 01 (một) điện thoại đã qua sử dụng nhãn hiệu OPPO A31, vỏ màu xanh, tạm giữ của Ng, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho M và Ng. Những vật chứng còn lại được nhập kho vật chứng để xử lý theo quy định.
Bản cáo trạng số: 92/ CT-VKS ngày 15/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc giang truy tố bị cáo về tội “Chứa mại dâm” theo khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Chủ tọa phiên tòa công bố lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì về lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích tính chất, hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh, đề nghị Hội đồng xét xử:
* Căn cứ điểm khoản 1 Điều 327, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự.
- Xử phạt bị cáo Lê Thị N từ 01 năm 03 tháng tù đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Chứa mại dâm” thời hạn tù tính từ ngày 03/3/2023.
- Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.
- Về trách nhiệm dân sự không đặt ra giải quyết.
* Vật chứng của vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu 02 vỏ bao cao su đã qua sử dụng và 02 bao cao su đã qua sử dụng để tiêu hủy.
Tịch thu số tiền 500.000 đồng để sung ngân sách Nhà nước.
- Trả lại bị cáo số tiền 230.000 đồng và 01 điện thoại đã qua sử dụng nhãn hiệu SamSung Galaxy A11, vỏ màu trắng, số Imei 1 là 356983142154849, số Imei 2 là 356489842154846, lắp số thuê bao 0393706941.
* Án phí căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Phần tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với bản luận tội của Viện kiểm sát, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát viên nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về sự vắng mặt của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Tòa án đã tống đạt hợp lệ cho những người tham gia tố tụng, tại phiên tòa những người này vắng mặt, Kiểm sát viên, bị cáo đều đề nghị HĐXX tiếp tục xét xử vụ án, xét thấy đã có lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong hồ sơ vụ án và sự vắng mặt của nhưng người này không làm ảnh hưởng đến quá trình xét xử, HĐXX căn cứ Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự xét xử vụ án theo quy định.
[3]. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và vật chứng thu giữ được có đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 22 giờ 46 phút ngày 03/3/2023, tổ công tác của Công an thành phố B bắt quả tang tại quán cà phê thư giãn trên đường Võ Nguyễn Giáp thuộc thôn Ba, xã Tân Mỹ, thành phố B, chủ quán là Lê Thị N có hành vi chứa mại dâm hai đôi nam nữ đang có hành vi mua bán dâm trong quán gồm: Nguyễn Thị Ng và Chu Đình Th; Lê Thị M và Cao Anh C. N thu tiền của Th và C với giá 250.000 đồng/01 người/01 lượt mua dâm, sau đó trả cho gái bán dâm 100.000 đồng đến 120.000 đồng.
Như vậy có đủ căn cứ kết luận bị cáo Lê Thị N phạm tội “Chứa mại dâm” tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4]. Xét tính chất vụ án: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, chỉ vì mục đích hám lợi mà bị cáo đã có hành vi chứa mại dâm, gây mất ổn định trật tự về an ninh tại địa phương và dư luận quần chúng nhân dân lên án, làm xâm hại tới đạo đức cũng như thuần phong mỹ tục và nếp sống văn minh lành mạnh trong xã hội, chính từ mại dâm còn là nguyên nhân làm lây truyền các loại bệnh nguy hiểm khác, hàng năm Nhà nước cũng như các Tổ chức xã hội thường xuyên tuyên truyền bài trừ tệ nạn này ra khỏi đời sống xã hội, bị cáo đã không nhận thức được việc làm của mình đã dấn thân vào con đường phạm tội.
[5]. Đánh giá về nhân thân của bị cáo thì thấy rằng: Bị cáo là người có nhân thân xấu Bản án số 220/HSST ngày 18/8/1997,bị Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 30 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy và Bản án số 172/2006/HSST ngày 25/5/2006, bị Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 4 tháng 21 ngày tù về tội Đánh bạc. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng không nhận thức được việc làm của mình mà vẫn tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý, chứng tỏ bị cáo là người coi thường pháp luật. Vì vậy cần có một mức án là hình phạt tù có thời hạn tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để có tác dụng giáo giục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt sống có ích cho gia đình và xã hội, vừa có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội.
[6]. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
[7]. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo trong quá trình điều tra vụ án cũng như tại phiên tòa có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[8]. Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là Cao Anh C, Chu Đình Th có hành vi mua dâm và Nguyễn Thị Ng, Lê Thị M có hành vi bán dâm. Ngày 05/5/2023, Trưởng Công an thành phố B đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, do vậy không đặt ra giải quyết trong vụ án này.
Đối với chị Nguyễn Thị L cho Lê Thị N thuê nhà, nhưng không biết việc N chứa mại dâm nên không có căn cứ xem xét xử lý.
Đối với Phạm Hồng Ng là người cháu nội của Lê Thị N, Ng không biết, không thỏa thuận, bàn bạc gì với N về việc tổ chức cho M và Ng bán dâm nên không xem xét xử lý.
[9]. Vật chứng của vụ án: Tịch thu 02 vỏ bao cao su đã qua sử dụng và 02 bao cao su đã qua sử dụng để tiêu hủy. Tịch thu số tiền 500.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có để sung ngân sách Nhà nước. Trả lại bị cáo số tiền 230.000 đồng và 01 điện thoại đã qua sử dụng nhãn hiệu SamSung Galaxy A11, vỏ màu trắng, số Imei 1 là 356983142154849, số Imei 2 là 356489842154846, lắp số thuê bao 0393706941đây là tài sản của cá nhân bị cáo không liên quan đến việc phạm tội. Đối với điện thoại di động của Ng và M đã được Cơ quan điều tra trả lại, do vậy không đặt ra giải quyết.
[10]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo N là người cao tuổi được miễn án phí theo quy định của pháp luật.
[11]. Về hình phạt bổ sung bằng tiền, bị cáo là người cao tuổi, không có nghề nghiệp và nơi ở, kinh tế khó khăn, do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.
[12]. Tại phiên tòa, Đại diện Viện sát nhân dân thành phố B giữ quyền công tố tại phiên tòa căn cứ vào hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.
[13]. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
* Căn cứ khoản 1 Điều 327, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106; Điều 292, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
1. Xử phạt bị cáo Lê Thị N 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù về tội “Chứa mại dâm” thời hạn tù tính từ ngày 03/3/2023.
Không áp dụng phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.
2. Về trách nhiệm dân sự không đặt ra giải quyết.
3. Vật chứng của vụ án: Tịch thu 02 vỏ bao cao su đã qua sử dụng và 02 bao cao su đã qua sử dụng để tiêu hủy. Tịch thu số tiền 500.000 đồng để sung ngân sách Nhà nước. Trả lại bị cáo số tiền 230.000 đồng và 01 điện thoại đã qua sử dụng nhãn hiệu SamSung Galaxy A11, vỏ màu trắng, số Imei 1 là 356983142154849, số Imei 2 là 356489842154846, lắp số thuê bao 0393706941.
4. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Toà tuyên án.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kết quả tống đạt hoặc niêm yết bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội chứa mại dâm số 84/2023/HS-ST
Số hiệu: | 84/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/06/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về