Bản án về tội chứa mại dâm số 58/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM THUẬN NAM, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 58/2022/HS-ST NGÀY 21/07/2022 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 21/7/2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 36/2022/TLST-HS ngày 21 tháng 6 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2022/QĐXXST-HS ngày 30/6/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: H.T.K.L; Sinh năm: 1975, tại: Bình Thuận;;không có tên gọi khác; Giới tính: Nữ; Nơi cư trú: thôn L.Đ, xã T.L, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Trình độ học vấn: 07/12; Nghề nghiệp: Kinh doanh; Tiền án, tiền sự: không; con của ông: H.H.K sinh năm: 1943, đã chết; con của bà: P.T.B, sinh năm: 1944, đã chết; Gia đình có 09 anh, chị, em ruột, lớn nhất sinh năm 1967, nhỏ nhất sinh năm 1989, bị cáo là con thứ 4 trong gia đình. Chồng: N.N.C – sinh năm 1968, nghề nghiệp làm nông; Con: 03 người, lớn nhất sinh năm 1995, nhỏ nhất sinh năm 2019; Tất cả hiện trú tại: thôn L.Đ, xã T.L, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận;

Bị cáo bị bắt ngày 10/01/2022 đến ngày 16/01/2022 được thay thế biện pháp ngăn chặn và áp dụng biện pháp “Cấm đi khởi nơi cư trú” từ ngày 19/01/2022 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: ông Mai Quang D – Luật sư của văn phòng Luật sư Phan Thiết – thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Bình Thuận. (có mặt)

- người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan:

1. T.T.Th – 1987 (vắng mặt) Nơi cư trú: khu phố G.Th2, thị trấn Ph.R.C, huyện T.Ph, tỉnh Bình Thuận.

2. Ng.Đ.H1 – 1993 (vắng mặt) Nơi cư trú: thôn H.Th, xã T.H3, thị xã L.G, tỉnh Bình Thuận.

3. Ng.Đ.Ph – 1987 (vắng mặt) Nơi cư trú: khu phố L.V, thị trấn Th.N, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận.

4. Kh.T.K.L – 1987 (vắng mặt) Nơi cư trú: số x/y NTPh, phường Th.G, Quận Th.Kh, thành phố Đ.N.

5. Y.Th.S – 1990 (vắng mặt) Nơi cư trú: thôn Đ1.M, xã Đ2.Th, huyện T.L, tỉnh Bình Thuận.

6. H.Th.Ch – 1990 (vắng mặt) Nơi cư trú: thôn Đ1.M, xã Đ2.Th, huyện T.L, tỉnh Bình Thuận.

7. V.Th.Th – 1978 (vắng mặt) Nơi cư trú: ấp T.Ph, xã Ph.T1, thành phố B.H2, tỉnh Đồng Nai.

8. Ng.Ng.Ch – 1968 (vắng mặt) Nơi cư trú: thôn L.Đ, xã T.L, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo H.T.K.L bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Nam tỉnh Bình Thuận truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 08/01/2022, Công an huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận tiến hành kiểm tra cơ sở dịch vụ nhà nghỉ-Karaoke-cà phê K.L thuộc thôn L.Đ, xã T.L, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận do bà H.T.K.L, sinh năm 1975 (trú thôn L.Đ, xã T.L, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận) làm chủ và trực tiếp quản lý. Quá trình kiểm tra, lực lượng Công an huyện đã phát hiện bắt quả tang 02 cặp nam nữ đang có hành vi mua, bán dâm tại 02 phòng của nhà nghỉ K.L gồm: cặp T.T.Th (tức Th Lùn, sinh năm 1987, trú khu phố Th.G2, thị trấn Ph.R.C, huyện T.Ph, tỉnh Bình Thuận) và Ng.Đ.H1 (sinh năm 1993, trú thôn H.Th, xã T.H3, thị xã L.G, tỉnh Bình Thuận) đang mua bán dâm tại phòng số 3; cặp Kh.T.K.L (sinh năm 1975, trú x/y Ng.Tr.Ph, Th.G, quận Th.Kh, thành phố Đà Nẵng) và Ng.Đ.Ph (sinh năm 1987, trú khu phố L.V, thị trấn Th.N, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận) đang mua bán dâm tại phòng số 7. (Bút lục số: 41 42; 77-153; 159- 185).

Tang vật tạm giữ gồm: (Bút lục số: 46-47; 59-60) - 01 chiếc bao cao su hiệu Sure chưa qua sử dụng, thu giữ dưới giường tại phòng nghỉ số 3;

- 40 chiếc bao cao su hiệu Sure chưa qua sử dụng, thu giữ khi khám xét tại phòng quản lý kinh doanh cũng là phòng của bà H.T.K.L.

Quá trình điều tra đã xác định được: Ngày 05/01/2022, T.T.Th đến cơ sở dịch vụ nhà nghỉ, Karaoke, cà phê K.L do H.T.K.L làm chủ xin làm tiếp viên cà phê, Karaoke nhằm mục đích hoạt động mại dâm thì được bị cáo L đồng ý và sắp xếp cho Th ở tại nhà nghỉ của bị cáo L. Bị cáo L quy định nhiệm vụ của Th là bưng bê cà phê, nước uống cho khách, phục vụ khách hát Karaoke và tự tìm khách mua dâm. Th chỉ được hưởng tiền boa của khách và tiền bán dâm chứ bị cáo L không kí kết hợp đồng lao động và cũng không trả tiền công cho phục vụ cho Th. Khi Th có nhu cầu thuê phòng nghỉ để mua bán dâm với khách thì thông báo cho bị cáo L biết để sắp xếp phòng cho thuê với giá là 50.000 đồng đối với phòng quạt và 70.000 đồng đối với phòng máy lạnh/01 lần mua bán dâm (một tiếng đồng hồ). Ngoài ra, bị cáo L còn bán bao cao su với giá 5.000 đồng/cái cho nhân viên có nhu cầu để phục vụ khách. Khoảng 20 giờ ngày 08/01/2022, sau khi tiếp cận và thỏa thuận mua bán dâm với Ng.Đ.H1, T.T.Th báo bị cáo L thuê phòng nghỉ để thực hiện hành vi mua bán dâm thì được bị cáo L sắp xếp phòng số 3 tại nhà nghỉ K.L. Sau đó, Th dẫn Hạnh và phòng số 3, cả hai đang mua bán dâm thì bị phát hiện bắt quả tang. (Bút lục số:

101-111) Riêng Kh.T.K.L là người thuê phòng tại phòng số 7 của nhà nghỉ K.L để ở từ đầu tháng 01/2022 với giá tiền 200.000 đồng/ngày. Quá trình ở tại đây, K1.L đã sử dụng phòng nghỉ này để hoạt động bán dâm. Tối ngày 08/01/2022, Ng.Đ.Ph đến quán cà phê K.L để uống cà phê và trực tiếp đặt vấn đề mua dâm với K1.L (Pháp là khách quen của K1.L) thì được K1.L dẫn vào phòng nghỉ số 7 để thực hiện hành vi mua bán dâm và đã bị phát hiện bắt quả tang cùng với cặp T.T.Th - Ng.Đ.H1 như đã nêu trên. (Bút lục số: 112-120 ).

* Vật chứng của vụ án: Đối với 41 cái bao cao su hiệu Sure thu giữ trong quá trình bắt quả tang, Viện kiểm sát huyện Hàm Thuận Nam đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Thuận Nam bảo quản.

Cáo trạng số 41/CT-VKSHTN-HS ngày 17/6/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Nam tỉnh Bình Thuận truy tố H.T.K.L về tội: “Chứa mại dâm” theo Khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Nam phát biểu quan điểm xử lý vụ án như sau:

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: bị cáo H.T.K.L phạm tội “Chứa mại dâm”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: H.T.K.L từ 18 (mười tám) tháng tù đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 tháng đến 48 tháng.

Về xử lý vật chứng: đề nghị Hội đồng xét xử Áp Dụng: điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Tuyên tịch thu tiêu hủy đối với 41 cái bao cao su hiệu Sure thu giữ trong quá trình bắt quả tang.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã mô tả, thống nhất với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh và khung hình phạt, không tranh luận gì thêm, xin được giảm nhẹ hình phạt.

Luật sư bào chữa cho bị cáo H.T.K.L tại phiên tòa thống nhất với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh và khung hình phạt, đồng thời cho rằng bị cáo có nhân thân lai lịch tốt, lần đầu phạm tội, đã thành khẩn khai báo trước cơ quan điều tra và tại phiên tòa; trường hợp phạm tội của H.T.K.L có thể xem xét là phạm tội ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng, và tỏ ra rất ăn năn hồi cãi về việc làm của mình. Mặt khác H.T.K.L còn có con nhỏ mới hơn 3 tuổi. là những tình tiết cần được xem xét để giảm nhẹ hình phạt. do đó đề nghị HĐXX cho bị cáo được hưởng án treo để có điều kiện nuôi con nhỏ và xây dựng cuộc sống.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hàm Thuận Nam, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Nam, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về tội danh của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo H.T.K.L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận này phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ, do đó đã đủ cơ sở xác định:

Bị cáo H.T.K.L là công dân có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hoàn toàn nhận thức được việc chứa mại dâm là vị phạm pháp luật, nhưng vì lợi ích cá nhân mà bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật, đã để cho nhân viên của mình là T.T.Th sử dụng phòng số 3 tại cơ sở dịch vụ nhà nghỉ- Karaoke-cà phê K.L thuộc thôn L.Đ, xã T.L, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận, do bị cáo làm chủ (trực tiếp quản lý) bán dâm cho Ng.Đ.H1 và đã bị bắt quả tang vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 08/01/2022.

Hành vi của bị cáo H.T.K.L đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Chứa mại dâm”, quy định tại Khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự.

[3] Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, luôn chấp hành tốt chính sách và chủ trương pháp luật của nhà nước, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, đang nuôi con nhỏ mới 38 tháng tuổi là cháu Nguyễn Hồ Huyền My, được chính quyền địa phương xác nhận, quá trình lao động sản xuất được Hội nông dân tỉnh Bình Thuận tặng giấy khen vì có thành tích tốt nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Ngoài ra, Hội đồng xét xử xét thấy, khung hình phạt mà bị cáo phạm phải là từ 01 đến 5 năm, thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. Do đó không chấp nhận ý kiến trình bày của Luật sư bào chữa cho bị cáo về việc “trường hợp phạm tội của bị cáo H.T.K.L có thể xem xét là phạm tội ít nghiêm trọng”.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. [4] Về mức hình phạt:

Bị cáo H.T.K.L là một công dân có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức rõ chứa mại dâm là vi phạm pháp luật. Tuy nhiên vì lợi ích cá nhân của bản thân, bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật, cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện ý thức xem thường pháp luật, đã trực tiếp xâm phạm trật tự công cộng, gây tác động tiêu cực đến nếp sống văn minh, hủy hoại nhân cách con người, là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, làm lây truyền nhiều bệnh xã hội nguy hiểm trong đó có HIV/AIDS nên cần phải được truy tố, xét xử theo đúng quy định pháp luật để răn đe, phòng ngừa chung.

Tuy nhiên xét thấy, bị cáo có đủ các điều kiện được hưởng án treo quy định tại Nghị quyết 02/2018, bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trong đó có 1 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, do đó không nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ giáo dục, răn đe bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội.

Về hình phạt bổ sung: xét thấy bị cáo H.T.K.L đối với lần bị bắt quả tang vẫn chưa thu được tiền phòng, hơn nữa đây không phải là nguồn thu nhập chính của bị cáo, bị cáo đang có hoàn cảnh khó khăn, chồng đi làm biển thường xuyên đi xa nhà, bị cáo còn phải nuôi con nhở, nên không áp dụng hình phạt tiền làm hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng:

- Đối với 41 cái bao cao su hiệu Sure thu giữ trong quá trình bắt quả tang. Không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[6] Đối với hành vi mua - bán dâm của T.T.Th – Ng.Đ.H1; Kh.T.K.L – Ng.Đ.Ph Công an huyện Hàm Thuận Nam đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi mua - bán dâm theo khoản 1 Điều 24 và khoản 1 Điều 25 Nghị định số 144/2021/NĐ–CP của Chính Phủ nên không đề cập xử lý tiếp theo.

[7] Riêng Kh.T.K.L là người thuê phòng tại phòng số 7 của nhà nghỉ K.L để ở từ đầu tháng 01/2022 với giá tiền 200.000 đồng/ngày. Quá trình ở tại đây, K1.L đã sử dụng phòng nghỉ này để hoạt động bán dâm. K1.L không phải là tiếp viên của quán, mà chỉ là khách thuê trọ, việc K1.L có bán dâm hay không bị cáo không thể quản lý được, do đó không buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi mua bán dâm của Kh.T.K.L.

[8] Ngoài ra, tại thời điểm bắt quả tang, còn có một số tiếp viên đang có mặt tại quán gồm: Y.Th.S, V.Th.Th , Lê Thị Thu Hà , Huỳnh Thị . Các tiếp viên này đều khai nhận: đã đến xin làm tiếp viên cà phê, Karaoke nhằm mục đích hoạt động bán dâm tại cơ sở dịch vụ nhà nghỉ, Karaoke, cà phê K.L do H.T.K.L làm chủ từ năm 2021 đến nay, nhưng giữa các tiếp viên này và bị cáo L không có kí kết hợp đồng lao động. Khoảng 11 giờ hàng ngày, các tiếp viên nữ trên có mặt tại cơ sở nhà nghỉ, karaoke, cà phê K.L để bưng bê cà phê, nước uống cho khách, phục vụ khách hát Karaoke và tự tìm khách mua dâm; họ không được bị cáo L trả tiền công phục vụ mà chỉ được hưởng tiền bo của khách và tiền bán dâm cho khách (riêng Lê Thị Thu Hà chỉ xin làm tiếp viên phục vụ Karaoke chứ không bán dâm). Các tiếp viên này không được H.T.K.L bố trí ở tại nhà nghỉ do bị cáo L quản lý như Tang Thị Th. Y.Th.S, V.Th.Th, H.Th.Ch đều thừa nhận bản thân đã nhiều lần thuê phòng nghỉ bán dâm cho khách khi khách có nhu cầu tại cơ sở kinh doanh dịch vụ Karaoke, cà phê và nhà nghỉ K.L của bị cáo H.T.K.L. Quá trình điều tra, bị cáo H.T.K.L cũng thừa nhận có vài lần cho Y.Th.S, V.Th.Th, H.Th.Ch thuê phòng tại nhà nghỉ K.L với giá 50.000 đồng đối với phòng quạt, 70.000 đồng đối với phòng lạnh/ lần, tuy nhiên bị cáo chỉ nghĩ rằng giữa họ là bồ bịch (có quan hệ yêu đương), bị cáo không thừa nhận có biết các tiếp viên này thuê phòng nghỉ để bán dâm. Hơn nữa, quá trình điều tra đến nay cũng không xác định được người mua dâm của những tiếp viên này, cũng như không xác định được thời gian bán dâm, không xác định được bán dâm bao nhiêu lân và tại phòng nào của nhà nghỉ K.L do bị cáo làm chủ. Do đó, không đủ cơ sở buộc bị cáo H.T.K.L chịu trách nhiệm về hành vi mại dâm của các tiếp viên Y.Th.S, V.Th.Th, H.Th.Ch trong những lần đó. Đồng thời Cơ quan điều tra cũng không đề cập xử lý đối với các đối tượng này về hành vi mại dâm là có căn cứ.

[8] Về án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố bị cáo H.T.K.L, phạm tội: “Chứa mại dâm”.

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt H.T.K.L 18 (mười tám) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng, thời gian tính từ ngày tuyên án 21/7/2022.

Giao bị cáo H.T.K.L cho Ủy ban nhân dân xã T.L, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[2] điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy đối với 41 cái bao cao su hiệu Sure thu giữ trong quá trình bắt quả tang.

(vật chứng đang được bảo quản tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Hàm Thuận Nam, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/7/2022).

[3] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo H.T.K.L phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo H.T.K.L có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt cơ quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

110
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội chứa mại dâm số 58/2022/HS-ST

Số hiệu:58/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Nam - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;