Bản án về tội chứa mại dâm số 43/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H – TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 43/2022/HS-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 30 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước, xét xử sơ thẩm, kín vụ án hình sự thụ lý số 40/2022/HSST ngày 03 tháng 6 năm 2022; theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2022/QĐXXST-HS ngày 13/6/2022 đối với bị cáo:

Vũ Thị Tuyết L, sinh năm 1988 tại Bình Phước.

Tên gọi khác: M; Giới tính: Nữ. Nơi cư trú: Ấp 3A, xã M1, huyện Ch, tỉnh Bình Phước; Chỗ ở hiện nay: Tổ 5, ấp X, xã Th, huyện H, tỉnh Bình Phước. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Buôn bán. Trình độ học vấn: 05/12. Cha: Vũ Văn B (đã chết); Mẹ: Phạm Hồng T, sinh năm 1960 cư ngụ tại: Ấp 3A, xã M1, huyện Ch, tỉnh Bình Phước. Bị cáo có 05 anh em ruột, lớn nhất sinh năm 1981, nhỏ nhất sinh năm 2005; Bị cáo chưa đăng ký kết hôn với ai; Bị cáo có 03 con, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2018. Tiền án, tiền sự: Không .

Ngày 27/12/2021 có hành vi Chứa mại dâm tại khu vực thuộc ấp X, xã Th, huyện H, tỉnh Bình Phước, bị cáo bị bắt quả tang và bị tạm giữ.

Đến ngày 05/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H khởi tố vụ án, khởi tố bị can và Lệnh tạm giam bị cáo cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vũ Thị Tuyết L thuê đất và nhà của bà Phạm Thị C để kinh doanh nước giải khát với tên biển hiệu là ‘Emy” thuộc tổ 5, ấp X, xã Th, huyện H, tỉnh Bình Phước từ tháng 12 năm 2020 cho đến ngày 27/12/2021. Do muốn nhanh chóng thu lợi bất chính nên Vũ Thị Tuyết L đã nảy sinh ý định cho tiếp viên Nguyễn Thị Thu T massa, kích dục cho khách với giá 170.000đ/lượt, trong đó tiếp viên được 100.000đ, L được 70.000đ và bán dâm cho khách với giá 400.000đ/ lượt ngay tại phòng ngủ của quán “Emy”; sau mỗi lượt bán dâm cho khách xong, T đưa cho L số tiền 80.000đ/lượt.

Đến khoảng 16 giờ 30 phút ngày 27/12/2021, Đỗ Thành Tr và Sơn T1 đến quán “ Emy” uống nước nên T mang nước ra mời Tr, T1 đồng thời T hỏi hai người khách là muốn mua dâm hay massa, nghe vậy thị Tr nói với T muốn mua dâm. Lúc này T thỏa thuận giá bán dâm cho Đỗ Thành Tr và Sơn T1 với giá 800.000đ (mỗi lần bán dâm là 400.000đ/1 người) thì Tr và T1 đồng ý. Sau đó T đã lần lượt bán dâm cho Tr và T1 ngay tại phòng ngủ của quán “Emy” do Vũ Thị Tuyết L làm chủ.

Hành vi bán dâm cho khách của Nguyễn Thị Thu T và chứa mại dâm của Vũ Thị Tuyết L đã bị lực lượng công an huyện H lập biên bản phạm tội quả tang và xử lý theo luật định.

Ngoài ra quá trình điều tra xác định: Vào các ngày 24, 25, 26 tháng 12 năm 2021, Vũ Thị Tuyết L đã đồng ý cho T bán dâm cho khách tại phòng ngủ của quán “Emy” nhưng L không nhớ rõ T đã bán dâm cho bao nhiêu khách và đã nhận bao nhiêu tiền bán dâm từ T. Đồng thời Đỗ Thành Tr cũng khai nhận trước ngày 27/12/2021, Tr có hành vi mua dâm với Nguyễn Thị Thu T tại phòng ngủ của quán “Emy”.

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa Vũ Thị Tuyết L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố.

Tại bản cáo trạng số 44/CT-VKS ngày 03 tháng 6 năm 2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện H đã truy tố Vũ Thị Tuyết L về tội “Chứa mại dâm” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 327 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà: Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như bản cáo trạng, căn cứ tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo, đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Vũ Thị Tuyết L phạm tội “Chứa mại dâm”.

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 327, điểm s khoản 1 Điều 51 Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Vũ Thị Tuyết L mức án từ 05 (năm) năm đến 05 (năm) 06 (sáu) tháng tù.

Xử lý vật chứng vụ án:

02 vỏ bao cao su đã bị xé rách, trên vỏ bao ghi chữ “OK”; 02 ruột bao cao su đã qua sử dụng; 03 khăn ướt màu trắng đã qua sử dụng; 01 hộp khăn ướt hiệu Nano; 01 bao cao su nhãn hiệu “OK” chưa qua sử dụng; 01 túi xách màu đen nhãn hiệu “JIELSHI” là công cụ để Nguyễn Thị Thuy T thực hiện hành vi bán dâm, không còn giá trị sử dụng. Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 BLTTHS, đề nghị TAND huyện H tuyên tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H xác định: 95 khăn lạnh nhãn hiệu “Tuấn Kiệt” ; 03 hộp bao cao su nhãn hiệu “RocMen” mỗi hộp đựng 3 bao cao su chưa qua sử dụng; 01 hộp bao cao su nhãn hiệu “RocMen” đựng 1 bao cao su chưa qua sử dụng và 01 vỏ hộp bao cao su nhãn hiệu “RocMen” đây là những dụng cụ L chuẩn bị cho tiếp viên trong quán “Emy” dùng để bán dâm cho khách. Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 BLTTHS, đề nghị TAND huyện H tuyên tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

Đối với số tiền 800.000 đồng đã thu giữ của Nguyễn Thị Thu T, đây là tiền do T bán dâm cho Tr và T1 mà có. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS, đề nghị Tòa án nhân dân huyện H tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không tranh luận. Lời nói sau cùng củng bị cáo: Bị cáo nhận thức hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội chuộc lại lỗi lầm mình gây ra.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ý kiến khiếu nại gì nên hợp pháp [2]Về đánh giá chứng cứ, xác định tội danh của bị cáo:

Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai người làm chứng, phù hợp với vật chứng thu giữ, và các tài liệu chứng cứ khác do cơ quan điều tra thu thập có tại hồ sơ vụ án được xem xét, đánh giá tại phiên tòa, đủ cơ sở để kết luận:

Trong khoảng thời gian kinh doanh quán cà phê “Emy” từ đầu tháng 12/2020 đến ngày 27/12/2021, Vũ Thị Tuyết L đã nhiều lần cho tiếp viên Nguyễn Thị Thu T bán dâm cho khách tại phòng ngủ của quán cà phê “Emy” do L làm chủ. Sau mỗi lần bán dâm cho khách, Nguyễn Thị Thu T đưa cho Vũ Thị Tuyết L số tiền 80.000 đồng/ 1 lượt bán dâm.

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 27/12/2021, Nguyễn Thị Thu T đang bán dâm cho Đỗ Thành Tr và Sơn T1 ngay tại phòng ngủ của quán cà phê “Emy” thuộc ấp X, xã Th, huyện H, tỉnh Bình Phước thì bị lực lượng Công an huyện H tiến hành kiểm tra, phát hiện nên lập biên bản bắt quả tang.

Ngoài ra, quá trình điều tra còn xác định: Vào các ngày 24, 25, 26 tháng 12 năm 2021, Vũ Thị Tuyết L đã đồng ý cho T bán dâm cho khách tại phòng ngủ của quán “Emy” nhưng L không nhớ rõ T bán dâm cho bao nhiêu khách và đã nhận bao nhiêu tiền bán dâm từ T.

Hành vi cho người khác sử dụng phòng ngủ tại quán cà phê “Emy” do mình quản lý để tiếp viên thực hiện hành vi mua bán dâm với khách do Vũ Thị Tuyết L thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Chứa mại dâm”.Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố đối với bị cáo với tội danh và khung hình phạt như đã nêu trên là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

Hành vi hưởng lợi thông qua việc kinh doanh thân xác phụ nữ do bị cáo thực hiện trong vụ án không những đã trực tiếp xâm hại đến trật tự công cộng, xâm phạm thuần phong mỹ tục, đạo đức xã hội, mà còn là một trong những nguy cơ làm lây lan các căn bệnh qua đường tình dục, gây tổn hại đến sức khỏe của con người trong cộng đồng xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật và đạo đức xã hội nhưng vì muốn có tiền tiêu xài nhanh chóng nên bị cáo vẫn thực hiện. Bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp; Hành vi này là nguy hiểm cho xã hội, do vậy cần phải xử lý nghiêm khắc, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe giáo dục riêng và phòng chống tội phạm chung.

Đối với Phạm Thị C là người cho L thuê mặt bằng và nhà để mở quán cà phê, quá trình điều tra xác định việc L thuê đất, nhà để hoạt động chứa mại dâm chị C không biết, nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với Đỗ Thành Tr, Sơn T1, Nguyễn Thị Thu T đã có hành vi mua bán dâm, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện H đã xử phạt hành chính là đúng quy định pháp luật.

[3] Đánh giá tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo:

Xét bị cáo Vũ Thị Tuyết L không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng để giải quyết vụ án, có nhân thân tốt nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình nên lời nói sau cùng của bị cáo được xem xét.

[4]Về biện pháp tư pháp:

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu, tiêu hủy:

02 vỏ bao cao su đã bị xé rách, trên vỏ bao ghi chữ “OK”; 02 ruột bao cao su đã qua sử dụng; 03 khăn ướt màu trắng đã qua sử dụng; 01 hộp khăn ướt hiệu Nano; 01 bao cao su nhãn hiệu “OK” chưa qua sử dụng; 01 túi xách màu đen nhãn hiệu “JIELSHI” là công cụ để Nguyễn Thị Thuy T thực hiện hành vi bán dâm do không còn giá trị sử dụng.; 95 khăn lạnh nhãn hiệu “Tuấn Kiệt” ; 03 hộp bao cao su nhãn hiệu “RocMen” mỗi hộp đựng 3 bao cao su chưa qua sử dụng; 01 hộp bao cao su nhãn hiệu “RocMen” đựng 1 bao cao su chưa qua sử dụng và 01 vỏ hộp bao cao su nhãn hiệu “RocMen” đây là những dụng cụ L chuẩn bị cho tiếp viên trong quán “Emy” dùng để bán dâm cho khách.

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu, sung công quỹ nhà nước:

Đối với số tiền 800.000 đồng đã thu giữ của Nguyễn Thị Thu T, đây là tiền do T bán dâm cho Tr và T1 mà có.

[5] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Thị Tuyết L (M) phạm tội: “Chứa mại dâm”.

2. Về điều luật áp dụng và mức hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 02 điều 327, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt vị cáo Vũ Thị Tuyết L (M) 05 (năm) năm tù. Thời gian tính tù từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 27/12/2021.

3. Về vật chứng vụ án:

Áp dụng Điều 46, 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu, tiêu hủy:

02 vỏ bao cao su đã bị xé rách, trên vỏ bao ghi chữ “OK”; 02 ruột bao cao su đã qua sử dụng; 03 khăn ướt màu trắng đã qua sử dụng; 01 hộp khăn ướt hiệu Nano; 01 bao cao su nhãn hiệu “OK” chưa qua sử dụng; 01 túi xách màu đen nhãn hiệu “JIELSHI” là công cụ để Nguyễn Thị Thuy T thực hiện hành vi bán dâm do không còn giá trị sử dụng.; 95 khăn lạnh nhãn hiệu “Tuấn Kiệt” ; 03 hộp bao cao su nhãn hiệu “RocMen” mỗi hộp đựng 3 bao cao su chưa qua sử dụng; 01 hộp bao cao su nhãn hiệu “RocMen” đựng 1 bao cao su chưa qua sử dụng và 01 vỏ hộp bao cao su nhãn hiệu “RocMen” đây là những dụng cụ L chuẩn bị cho tiếp viên trong quán “Emy” dùng để bán dâm cho khách.

- Tịch thu, sung công quỹ nhà nước:

Đối với số tiền 800.000 đồng đã thu giữ của Nguyễn Thị Thu T, đây là tiền do T bán dâm cho Tr và T1 mà có.

(Theo Quyết định chuyển vật chứng số 35/QĐ-VKS ngày 03/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước; Giấy nộp tiền ngày 15/6/2022 tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn và theo như mô tả của biên bản giao nhận vật chứng số 0005852. ngày 15/06/2022 giữa cơ quan Hỗ trợ tư pháp và Thi hành án hình sự và chi Chi cục thi hành án dân sự huyện H).

4. Về án phí:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:

Bị cáo Vũ Thị Tuyết L (M) phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5.Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

91
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội chứa mại dâm số 43/2022/HS-ST

Số hiệu:43/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hớn Quản - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;