Bản án 27/2023/HS-ST về tội chứa mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN THÀNH - TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 27/2023/HS-ST NGÀY 21/04/2023 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 21 tháng 4 năm 2023 tại Hội trường xét xử, trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 12/2023/TLST-HS, ngày 13 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2023/QĐXXST- HS ngày 16/3/2023 và Quyết định hoãn phiên toà số 06/2023/QĐST-HS ngày 29/3/2023 đối với:

Bị cáo Nguyễn Thị A, sinh năm: 1961 Tên gọi khác: Tạ Thị A. Giới tính: Nữ.

HKTT và chỗ ở: Thôn C, thị trấn H, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. (Nay là khu phố C, phường H, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).

Quốc tịch: V N. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 03/10. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Họ tên bố: Tạ Quang N (đã chết). Họ tên mẹ: Nguyễn Thị S (đã chết). Gia đình bị cáo có 06 chị em, bị cáo là con thứ 02. Chồng: Nguyễn Văn Ba, sinh năm 1963. Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 1984, con nhỏ sinh năm 1986.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 09/03/2011, bị Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 02 năm tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” và 02 năm tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội là 04 năm tù theo bản án số 12/2011/HSST. Ngày 22/6/2012 Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh ra Quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh số 01/2012/QĐ-BCB. Đến ngày 02/02/2016, Tòa án ra nhân dân huyện Thuận Thành ra Quyết định Đình chỉ thi hành biện pháp bắt buộc chữa bệnh số 01/2016/QĐĐCCB-TA. Ngày 02/7/2019, Cơ quan Thi hành án hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh ban hành Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù đối với người bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 18/12/2022 đến 26/12/2022 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. (bị cáo có mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Đào Thị G, sinh năm 1985. (vắng mặt). Địa chỉ: Thôn 3, xã L, huyện Hạ Hoà, tỉnh Phú Thọ.

2. Chị Đới Thị L, sinh năm 1989. (vắng mặt). Địa chỉ: Thôn Đồng Tiến, xã Tam Tiến, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc G.

NỘI DUNG VỤ ÁN Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 14 giờ 30 phút ngày 18/12/2022, tại Nhà trọ Vip Quỳnh Nga thuộc địa phận thôn C, thị trấn H, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (Nay là khu phố C, phường H, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) do Nguyễn Thị A, sinh năm 1961 làm quản lý. Lực lượng Công an thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh kiểm tra phát hiện bắt quả tang tại phòng 202 có Nguyễn Văn N, sinh năm 1979, HKTT thôn Chi Tr, xã Tân Chi, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh và Đào Hoài G, sinh năm 1985, HKTT thôn 3, xã L, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ đang có hành vi mua bán dâm. Tại phòng 203 có Nguyễn Văn V, sinh năm 1990, HKTT thôn Chi Tr, xã Tân Chi, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh và Đới Thị L, sinh năm 1989, HKTT thôn Đồng Tiến, xã Tam Tiến, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc G đang có hành vi mua bán dâm.

Vật chứng thu giữ: Tại phòng 202 thu giữ 01 bao cao su nhãn hiệu Doctor chưa qua sử dụng, 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu Water Lotur đã xé và 01 ruột bao cao su đã qua sử dụng ở trên giường; thu của Đào Hoài G số tiền 400.000 đồng và 01 điện thoại di động SamSung Galaxy A11 lắp sim số 0389.250.X và 0961.890.X. Tại phòng 203 thu giữ 02 bao cao su nhãn hiệu Doctor chưa qua sử dụng ở trên mặt bàn và 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu Doctor đã xé và 01 bao cao su đã qua sử dụng ở trên giường; thu của Đới Thị L số tiền 500.000 đồng và 01 điện thoại di động Nokia 230 lắp sim số 0342.307.X. Thu giữ tại quầy lễ tân 01 hộp bao cao su nhãn hiệu Doctor bên trong có 43 bao cao su chưa qua sử dụng. Bị cáo A tự nguyện giao nộp số tiền 1.100.000 đồng và 01 chiếc điện thoại Mastel lắp sim số 0399.893.X.

Tại cơ quan điều tra các đối tượng khai nhận: Khoảng 14 giờ ngày 18/12/2022, V và N rủ nhau đến nhà trọ Vip Quỳnh Nga của Nguyễn Thị A để mua dâm. Khi vào quầy lễ tân gặp A, V bảo với A nhà có nhân viên không cho 2 vé “tàu nhanh” tức là V hỏi A nhà có nhân viên bán dâm không cho V và N mỗi người một vé mua dâm. A đồng ý và sử dụng chiếc điện thoại Mastel lắp sim số 0399.893.X của A gọi đến số 0342.307.X của Đới Thị L và số 0961.890.X của Đào Hoài G (đều là gái bán dâm) nói với G và L “Có khách đến nhà trọ chơi” và bảo G và L về bán dâm cho khách. G và L đồng ý đến nhà trọ của A để bán dâm. V thấy A đã gọi nhân viên bán dâm đến thì V hỏi A tiền phòng hết bao nhiêu, A nói 50.000 đồng một phòng một lần mua dâm, tổng tiền của 2 phòng hết 100.000 đồng. V lấy tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng ra đưa trả, A cầm tiền và trả lại cho V số tiền 400.000 đồng gồm 02 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng, V cầm tiền đưa cho N để N trả tiền cho gái bán dâm. Trả tiền phòng xong, V và N lấy bao cao su rồi V vào phòng 203, N vào phòng 202 để cùng với G và L tiến hành mua bán dâm. Tại phòng 202, N và G thỏa thuận giá mua bán dâm là 200.000 đồng một lần, N đưa cho G 02 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng để trả G tiền mua dâm và bo thêm G 100.000 đồng, G cầm tiền nhưng do chưa có tiền lẻ nên chưa trả lại N 100.000 đồng, sau đó hai bên thực hiện hành vi mua bán dâm. Tại phòng 203, V và L thỏa thuận giá bán dâm là 200.000 đồng một lần, V đưa cho L một tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng nói trả tiền mua dâm cho L, còn thừa số tiền 300.000 đồng thì V bo thêm cho L rồi hai bên thực hiện hành vi mua bán dâm. Khi các đối tượng đang thực hiện hành vi mua bán dâm thì bị Công an huyện Thuận Thành bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 16/CTr-VKS ngày 11/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Thành truy đã tố Nguyễn Thị A về tội “Chứa mại dâm” theo khoản 1 Điều 327 của Bộ Luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo A khai nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố, bị cáo thừa nhận đã có hành vi dùng nhà nghỉ đang do mình quản lý để cho V, N, G và L có hành vi mua bán dâm. Bị cáo thừa nhận Cáo trạng truy tố bị cáo về hành vi chứa mại dâm là có căn cứ, đúng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện.

Trong phần tranh tụng, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận Thành thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã đưa ra chứng cứ để buộc tội Nguyễn Thị A phạm tội “Chứa mại dâm” và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo A phạm tội “Chứa mại dâm”. Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ Luật hình sự; Xử phạt A từ 14 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ bắt thi hành án nhưng được trừ đi số ngày tạm giữ từ ngày 18/12/2022 đến 26/12/2022.

Về vật chứng: Tịch thu sung quỹ nhà nước số vật chứng là tiền và tài sản thu giữ liên quan đến tội phạm gồm; Số tiền 400.000 đồng và 01 điện thoại di động SamSung Galaxy A11 lắp sim số 0389.250.X và 0961.890.X thu giữ của Đào Hoài G; số tiền 500.000 đồng và 01 điện thoại di động Nokia 230 lắp sim số 0342.307.X thu giữ của Đới Thị L; Số tiền 100.000 đồng và 01 chiếc điện thoại Mastel lắp sim số 0399.893.X thu giữ của bị cáo A.

Tịch thu tiêu huỷ số vật chứng là bao cao thu giữ gồm; 03 bao cao su nhãn hiệu Doctor chưa qua sử dụng; 01 phong bì thư được niêm phong có chữ ký của các thành phần tham gia bên trong phong bì có 01 vỏ bao cao su nhãn mác Doctor đã bị xé và 01 ruột bao cao su đã qua sử dụng (Ký hiệu M1); 01 phong bì thư được niêm phong có chữ ký của các thành phần tham gia bên trong phong bì có 01 vỏ bao cao su nhãn mác Water Lotur đã bị xé và 01 ruột bao cao su đã qua sử dụng (Ký hiệu M3); 01 hộp Bao cao su nhãn mác Doctor bên trong có 43 bao cao su nhãm mác Doctor.

Trả lại bị cáo A số tiền 1.000.000 đồng không liên quan đến tội phạm.

Bị cáo A nhận tội và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt. Trong phần nói lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và miễn cho bị cáo hình phạt bổ sung.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét toàn diện chứng cứ, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và của bị cáo.

NỘI DUNG VỤ ÁN

[1]. Về việc thực hiện trình tự tố tụng đối với vụ án:

Quá trình thực hiện thủ tục tố tụng để giải quyết vụ án, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Thành (nay là thị xã Thuận Thành), Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung vụ án:

[2.1]. Lời khai của bị cáo Nguyễn Thị A tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được thể hiện trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, có căn cứ để xác định:

Hi 14 giờ ngày 18/12/2022, tại Nhà trọ Vip Quỳnh Nga thuộc địa phận thôn C, thị trấn H, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (Nay là khu phố C, phường H, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) do Nguyễn Thị A đang làm quản lý. Bị cáo A đã có hành vi cho Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn N với Đới Thị L, Đào Hoài G thực hiện hành vi mua bán dâm. Do vậy đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo phạm tội “Chứa mại dâm”, tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 327 của Bộ Luật hình sự, như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận Thành truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2.2]. Xét về nguyên nhân, mục đích, tính chất của hành vi phạm tội: Nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội là do bị cáo phần nào đó thiếu hiểu biết pháp luật, bị cáo chứa mại dâm không với mục đích thu lợi từ hành vi mua bán dâm mà chỉ với mục đích lấy tiền cho thuê phòng. Tuy nhiên hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện thuộc loại tội phạm nghiêm trọng nên cần phải có hình phạt tương xứng với tính chất mức độ hành vi của bị cáo để giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Phạt bị cáo phải cách ly đời sống xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo.

[2.3]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ Luật hình sự. Tuy nhiên bị cáo đã một lần bị kết án, tuy bản án kết tội bị cáo đã được xóa án tích nhưng chứng tỏ bị cáo cũng là người không chấp hành tốt quy định của pháp luật, còn chưa nhận thức đầy đủ về hậu quả của hành vi phạm tội. Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ Luật hình sự. Đây là những tình tiết để Hội đồng xét xử xem xét cân nhắc khi lượng hình đối với bị cáo.

[3]. Về vật chứng của vụ án: Tịch thu sung quỹ Nhà nước số vật chứng là tiền và tài sản thu giữ liên quan đến tội phạm gồm; Số tiền 400.000 đồng và 01 điện thoại di động SamSung Galaxy A11 lắp sim số 0389.250.X và 0961.890.X thu giữ của Đào Hoài G; số tiền 500.000 đồng và 01 điện thoại di động Nokia 230 lắp sim số 0342.307.X thu giữ của Đới Thị L; Số tiền 100.000 đồng và 01 chiếc điện thoại Mastel lắp sim số 0399.893.X thu giữ của bị cáo A. Tịch thu tiêu huỷ số vật chứng không còn giá trị sử dụng đã thu giữ gồm: 03 Bao cao su nhãn hiệu Doctor chưa qua sử dụng; 01 phong bì thư được niêm phong có chữ ký của các thành phần tham gia bên trong phong bì có 01 vỏ Bao cao su nhãn mác Doctor đã bị xé và 01 ruột Bao cao su đã qua sử dụng (Ký hiệu M1); 01 phong bì thư được niêm phong có chữ ký của các thành phần tham gia bên trong phong bì có 01 vỏ Bao cao su nhãn mác Water Lotur đã bị xé và 01 ruột Bao cao su đã qua sử dụng (Ký hiệu M3); 01 hộp Bao cao su nhãn mác Doctor bên trong có 43 Bao cao su nhãm mác Doctor. Trả lại bị cáo A số tiền 1.000.000 đồng không liên quan đến tội phạm.

[4]. Liên quan đến vụ án có: Nguyễn Văn V và Nguyễn Văn N là người mua dâm. Sau khi tiến hành ghi lời khai, V và N đã lợi dụng sơ hở của cán bộ quản lý rồi bỏ trốn. Qua xác minh Công an xã Tân Chi cho biết tại thôn Chi Tr, xã Tân Chi, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh và các thôn khác trong xã không có công dân nào tên Nguyễn Văn V, sinh năm 1990 và Nguyễn Văn N, sinh năm 1979 như khai báo. Vì vậy Cơ quan điều tra tách ra để xử lý sau là phù hợp.

Đối với vợ chồng anh Nguyễn Bá Tr và chị Nguyễn Thị Th là chủ sở hữu nhà trọ Quỳnh Nga là người nhờ bị cáo A trông nom nhà trọ nhưng không có thoả thuận và cũng không biết việc bị cáo dùng nhà trọ để chứa mại dâm nên Cơ quan điều tra cũng không xử lý là có căn cứ.

Đối với hành vi bán dâm của Đới Thị L và Đào Hoài G, Công an huyện Thuận Thành đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính 400.000 đồng về hành vi bán dâm là có căn cứ.

[5]. Về án phí: Bị cáo A là người cao tuổi, tại phiên toà bị cáo đề nghị miễn tiền án phí nên cần chấp nhận, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo A.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị A phạm tội “Chứa mại dâm”.

Áp dụng khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ Luật hình sự. Điều 106; Điều 136 của Bộ Luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử.

1. Xử phạt Nguyễn Thị A 14 (Mười bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ đi số ngày tạm giữ từ ngày 18/12/2022 đến 26/12/2022.

2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu sung quỹ Nhà nước số vật chứng là tiền và vật gồm: Số tiền 1.000.000 đồng; 01 điện thoại di động SamSung Galaxy A11 cùng sim số 0389.250.X và sim số 0961.890.X; 01 điện thoại di động Nokia 230 cùng sim số 0342.307.X; 01 chiếc điện thoại Mastel cùng sim số 0399.893.X. Tịch thu tiêu huỷ số vật chứng gồm: 03 Bao cao su nhãn hiệu Doctor chưa qua sử dụng; 01 phong bì thư được niêm phong có chữ ký của các thành phần tham gia bên trong phong bì có 01 vỏ Bao cao su nhãn mác Doctor đã bị xé và 01 ruột Bao cao su đã qua sử dụng (Ký hiệu M1); 01 phong bì thư được niêm phong có chữ ký của các thành phần tham gia bên trong phong bì có 01 vỏ Bao cao su nhãn mác Water Lotur đã bị xé và 01 ruột Bao cao su đã qua sử dụng (Ký hiệu M3); 01 hộp Bao cao su nhãn mác Doctor bên trong có 43 Bao cao su nhãm mác Doctor. Trả lại bị cáo A số tiền 1.000.000 đồng. (Theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 27/3/2023 giữa Công an thị xã và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) 3. Về án phí: Bị cáo A không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo A có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

73
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 27/2023/HS-ST về tội chứa mại dâm

Số hiệu:27/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Thành - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Tòa án nhân dân thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh đã xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo Nguyễn Thị A về tội "Chứa mại dâm". Bị cáo A là người quản lý nhà trọ Vip Quỳnh Nga. Vào ngày 18/12/2022, lực lượng công an đã bắt quả tang tại phòng trọ có các đối tượng đang thực hiện hành vi mua bán dâm.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Viện kiểm sát đã đưa ra chứng cứ buộc tội bị cáo "Chứa mại dâm" và đề nghị mức hình phạt từ 14 đến 18 tháng tù. Hội đồng xét xử nhận định hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, cần xử phạt cách ly khỏi đời sống xã hội để giáo dục, cải tạo.

Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thị A 14 tháng tù về tội "Chứa mại dâm". Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền và tài sản liên quan đến tội phạm. Tịch thu tiêu hủy các vật chứng không còn giá trị sử dụng.
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;