TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 213/2024/HS-PT NGÀY 20/03/2024 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM
Ngày 20/3/2024, tại phòng xét xử trực tuyến điểm cầu trung tâm Tòa án nhân dân Thành phố H và phòng xét xử tại điểm cầu thành phần, Trại tạm giam số 1 Công an Thành phố H. Tòa án nhân dân Thành phố H xét xử phúc thẩm công khai trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số: 122/2024/TLPT-HS ngày 31/01/2024;
Do có kháng cáo của bị cáo Nghiêm Đình C đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 290/2023/HS-ST ngày 28/12/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đ, Thành phố H.
Bị cáo có kháng cáo: Nghiêm Đình C, sinh năm 1970; Nơi thường trú và chỗ ở: thôn O, xã T, huyện Đ, Thành phố H; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Học phổ thông: 9/12; Con ông Nghiêm Đình Tr, sinh năm 1945 và con bà Trần Thị B, sinh năm: 1948; Gia đình bị cáo có 05 anh chị em, bị cáo thứ nhất; Vợ: Nghiêm Thị N (đã ly hôn); Bị cáo có 02 con, sinh năm 2007 và 2010.
Tiền án, tiền sự và nhân thân:
- Ngày 15/4/2000, Tòa án Thành phố H xử phạt 06 tháng tù về tội Hủy hoại tài sản xã hội chủ nghĩa; 05 năm tù về tội Cướp tài sản của công dân (Bản án số 1060 ngày 15/4/2000; chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/6/2004; đã xóa án tích);
- Ngày 17/01/2007, Tòa án Thành phố H xử phạt 12 tháng tù về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (Bản án số 30 ngày 17/01/2007; chấp hành xong hình phạt tù ngày 19/7/2008; đã xóa án tích);
- Ngày 12/09/2011, Tòa án huyện S, Thành phố H xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số 155 ngày 12/9/2011; chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/3/2013; đã xóa án tích);
- Ngày 23/06/2014, Tòa án Thành phố H xử phạt 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số 448/2014/HSPT ngày 23/6/2014; chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/7/2016; chấp hành xong các quyết định khác của Bản án theo Biên bản xác minh tại Chi cục thi hành án dân sự huyện M ngày 13/11/2023; đã xóa án tích)
- Ngày 24/6/2020, Tòa án quận B, Thành phố H xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (Bản án số 123 ngày 24/6/2020; chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/4/2021, chấp hành xong các quyết định khác của Bản án theo Biên bản xác minh tại Chi cục thi hành án dân sự quận B ngày 08/11/2023; đã xóa án tích).
- Ngày 02/12/2012, Công an thị xã S, tỉnh Bắc Ninh xử phạt hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản (kết quả xác minh tại Công an thành phố S, tỉnh Bắc Ninh: Không có thông tin về việc xử phạt);
- Ngày 05/6/2017, Công an huyện Đ xử phạt hành chính về hành vi Xâm hại sức khỏe người khác (chưa nộp phạt).
Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/10/2023 đến nay tại trại tạm giam số 1 - Thành phố H (có mặt).
Vụ án còn có 01 người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 14 giờ 15 phút ngày 06/10/2023, Công an huyện Đ tiến hành kiểm tra quán cà phê “C” tại thôn Đ, xã H, huyện Đ, thành phố H do Nghiêm Đình C là chủ. Kết quả kiểm tra phát hiện tại phòng nghỉ tầng 2 của quán cà phê “C” có 01 đôi nam nữ gồm: Nguyễn Văn H (sinh năm 1989, trú tại: khu phố 1, phường H, thành phố S, tỉnh Bắc Ninh) và Mã Thị Th (sinh năm 1989, trú tại: thôn L, xã P, huyện V, Thành phố H) đang có hành vi mua bán dâm. Qua đấu tranh tại chỗ, các đối tượng khai nhận việc mua bán dâm tại quán là do Nghiêm Đình C thỏa thuận với khách và đồng ý cho phép thực hiện hành vi mua bán dâm tại phòng nghỉ tầng 2 của quán “C”. Tại thời điểm bắt quả tang còn có: Nguyễn Tuấn A (sinh năm 1992), Nguyễn Văn D (sinh năm 2000), Nguyễn Thanh B (sinh năm 1997), Lưu Quang Đ (sinh năm 1987) cùng trú tại: khu phố 1, phường H, thành phố S, tỉnh Bắc Ninh, Lý Thị L (sinh năm 1992; trú tại: thôn G, xã Ph, huyện M, tỉnh Hà Giang), Triệu Thị P (sinh năm 1995; trú tại: thôn 4, xã TL, huyện HY, tỉnh Tuyên Quang), Đào Thị Thu K (sinh năm 2006; trú tại: thôn S, xã QT, huyện TY, tỉnh Tuyên Quang) và Lò Thị X (sinh năm 2006; trú tại: Bản X, xã N, huyện M, tỉnh Điện Biên) đang ở quán. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nghiêm Đình C và đưa những người liên quan cùng vật chứng về trụ sở đấu tranh làm rõ.
Vật chứng tạm giữ:
- Tạm giữ trong quá trình bắt quả tang: Số tiền 3.600.000 đồng.
- Tạm giữ của Nghiêm Đình C: 01 điện thoại OPPO Reno 5 màu đen, lắp sim số 032580xxxx, 01 điện thoại OPPO màu xanh, lắp sim số 086677xxxx.
- Tạm giữ của Mã Thị Th: 01 điện thoại di động OPPO màu đen có lắp sim 1 số 058927xxxx, sim 2 039406xxxx.
- Tạm giữ của Nguyễn B A: 01 điện thoại SamSung màu xám, lắp sim số 035989xxxx - Tạm giữ trong quá trình khám xét tại quán cà phê “C”: 08 chiếc bao cao su có chữ Lavender và 01 đầu thu camera.
Kết quả điều tra xác định:
Do không có công việc ổn định, Nghiêm Đình C nảy sinh ý định sử dụng quán cà phê “C” làm địa điểm tổ chức mua, bán dâm. Để thu hút khách đến quán, C mở 1 phòng hát karaoke phục vụ khách khi có nhu cầu trước khi đặt vấn đề mua dâm rồi C thỏa thuận với khách có nhu cầu giá mua dâm là 1.200.000đ/1lượt. C chia cho gái bán dâm là 600.000đ đến 800.000đ/1 lượt bán dâm, còn lại C được hưởng lợi.
Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 06/10/2023, Nguyễn Tuấn A, Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn D (sinh năm 2000), Nguyễn Thanh B (sinh năm 1997), Lưu Quang Đ (sinh năm 1987) cùng trú tại: khu phố 1, phường H, thành phố S, tỉnh Bắc Ninh đến hát karaoke tại quán của Nghiêm Đình C. Do quán C chỉ có 03 nhân viên nữ là Mã Thị Th, Lý Thị L (sinh năm 1992; trú tại: thôn G, xã Ph, huyện M, tỉnh Hà Giang), Triệu Thị P (sinh năm 1995; trú tại: thôn 4, xã TL, huyện HY, tỉnh Tuyên Quang) nên C nhờ người gọi thêm Đào Thị Thu K (sinh năm 2006; trú tại: thôn S, xã QT, huyện TY, tỉnh Tuyên Quang) và Lò Thị X (sinh năm 2006; trú tại: Bản X, xã N, huyện M, tỉnh Điện Biên) đến phục vụ cho khách tại quán của C. Khi tất cả đang hát thì A, H và D đến gặp C để đặt vấn đề có nhu cầu mua dâm, C đồng ý và thỏa thuận tổng số tiền mua dâm là 3.600.000đ. A đưa cho C số tiền 3.600.000đ để C điều gái bán dâm cho A, H, D. Sau đó, C điều Th và L đi bán dâm cho khách. Nhưng do L bị mệt nên C bảo Th đi bán dâm cho cả 3 người, Th đồng ý rồi đưa Nguyễn Tuấn A đi lên tầng 2 bán dâm cho A. Sau khi bán dâm cho A xong thì Th đưa A xuống tiếp tục hát karaoke rồi đưa Nguyễn Văn H lên tầng 2 để bán dâm.
Khi Th và H đang thực hiện hành vi mua bán dâm thì bị Cơ quan Công an phát hiện.
Ngoài ra, kết quả mở rộng điều tra còn xác định Nghiêm Đình C còn thực hiện hành vi Chứa mại dâm 01 lần trước đó cụ thể như sau:
Vào khoảng 22 giờ ngày 03/10/2023, Nguyễn Tuấn A, Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn D, Nguyễn Thanh B và Lưu Quang Đ đến quán của Nghiêm Đình C để thuê phòng hát. Sau đó, A và H có nhu mua dâm nên A đặt vấn đề với C, C đồng ý và thỏa thuận giá mua dâm là 1.200.000đ/1lượt, A đồng ý rồi đưa cho C số tiền 2.400.000đ để A và H mua dâm. Sau khi nhận tiền, C bảo Mã Thị Th đưa A lên tầng 2 bán dâm còn Lý Thị L bán dâm cho anh Nguyễn Văn H.
Tại Cơ quan điều tra, ban đầu Nghiêm Đình C thành khẩn khai nhận hành vi vi phạm như trên. Tuy nhiên sau đó, C thay đổi lời khai không thừa nhận việc thỏa thuận giá bán dâm và điều gái đi bán dâm cho khách mà chỉ thừa nhận việc cho khách đến hát karaoke rồi thực hiện hành vi mua bán dâm tại quán hát của C. Việc mua bán dâm cụ thể như thế nào là do các đối tượng tự thỏa thuận với nhau, C chỉ là người cầm tiền giúp và thu phí phòng. Nhưng căn cứ vào tài liệu điều tra thu thập được như: Lời khai của các đối tượng liên quan (đều xác định có thỏa thuận mua bán dâm với C và được C bảo đi bán dâm cho khách); Biên bản và bản ảnh dẫn giải xác định địa điểm; Sơ đồ hiện trường…. Có đủ cơ sở để xác định: Nghiêm Đình C đã 02 lần thực hiện hành vi Chứa mại dâm vào ngày 03/10/2023 và ngày 06/10/2023 tại thôn Đ, xã H, huyện Đ.
Đối với hành vi mua, bán dâm của các đối tượng: Nguyễn Tuấn A, Nguyễn Văn H, Mã Thị Th và Lý Thị L, ngày 08/10/2023 Công an huyện Đ ra Quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức Phạt tiền.
Đối với 01 điện thoại di động OPPO màu đen, lắp sim 1 số 058927xxxx, sim 2 039406xxxx tạm giữ của Mã Thị Th, kết quả điều tra xác định là tài sản của Th, không liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra Quyết định xử lý vật chứng trao trả tài sản trên cho Th.
Đối với số tiền 3.600.000đ; 01 điện thoại OPPO Reno 5 màu đen, lắp sim số 032580xxxx, 01 điện thoại OPPO màu xanh, lắp sim số 086677xxxx; 01 điện thoại SamSung màu xám, lắp sim số 035989xxxx; 08 chiếc bao cao su có chữ Lavender; 01 đầu thu camera là vật chứng của vụ án cần chuyển Tòa án nhân dân huyện Đ giải quyết theo thẩm quyền.
Tại bản Cáo trạng số 295/CT-VKS-ĐA ngày 30/11/2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Thành phố H đã truy tố bị cáo Nghiêm Đình C về tội “Chứa mại dâm” theo điểm c khoản 2 Điều 327 Bộ luật hình sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 290/2023/HSST ngày 28/12/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đ, Thành phố H quyết định:
- Tuyên bố bị cáo Nghiêm Đình C phạm tội "Chứa mại dâm".
- Áp dụng: Điểm c khoản 2 Điều 327; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nghiêm Đình C 06 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 06/10/2023.
Ngoài ra Bản án còn quyết định về án phí, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 04/01/2024 bị cáo Nghiêm Đình C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo và trình bày: Hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, vợ chồng ly hôn, bị cáo đang nuôi con nhỏ, bị cáo là lao động chính trong gia đình nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
+ Bị cáo nộp đơn kháng cáo trong thời hạn luật định, nên đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận giải quyết yêu cầu kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.
+ Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 290/2023/HSST ngày 28/12/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đ, Thành phố H.
Bị cáo không tham gia tranh luận mà chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị cáo đảm bảo hình thức, thời hạn, đủ điều kiện giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm về trình tự, thủ tục và thẩm quyền đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[3] Về nội dung: Căn cứ lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phiên toà phúc thẩm cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa có đủ cơ sở kết luận:
Trong các ngày 03/10/2023 và ngày 06/10/2023 tại thôn Đ, xã H, huyện Đ, Thành phố H, bị cáo Nghiêm Đình C đã có 02 lần thực hiện hành vi Chứa mại dâm, cụ thể như sau:
Lần thứ nhất: Khoảng 22 giờ ngày 03/10/2023, bị cáo Nghiêm Đình C đã có hành vi sử dụng quán cà phê “C” của C tại thôn Đ, xã H, huyện Đ, Thành phố H cho các đối tượng Nguyễn Tuấn A, Nguyễn Văn H và Mã Thị Th thực hiện việc mua bán dâm với giá 2.400.000đ, C thu lời số tiền 800.000đ.
Lần thứ hai: Khoảng 14 giờ 15 phút ngày 06/10/2023, bị cáo Nghiêm Đình C đã có hành vi sử dụng quán cà phê “C” của C tại thôn Đ, xã H, huyện Đ, Thành phố H cho các đối tượng Nguyễn Tuấn A, Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn Đ và Mã Thị Th thực hiện việc mua bán dâm với giá 3.600.000đ. Khi Th và H đang thực hiện hành vi mua bán dâm (A đã thực hiện xong; Đ chưa thực hiện) thì bị phát hiện bắt giữ.
Với hành vi trên, Bản án sơ thẩm đã xử bị cáo về tội “Chứa mại dâm” theo điểm c khoản 2 Điều 327 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan.
[4] Về hình phạt: Khi quyết định hình phạt Tòa cấp sơ thẩm đã xem xét nhân thân, vai trò đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử phạt bị cáo 06 năm 6 tháng tù là có phần nghiêm khắc.
Hội đồng xét xử xét thấy: Tại phiên sơ thẩm và phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo trình bày hoàn cảnh gia đình khó khăn, vợ chồng ly hôn, bị cáo đang nuôi con nhỏ và bị cáo là lao động chính trong gia đình. Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử giảm một phần hình phạt cho bị cáo vẫn đảm bảo giáo dục bị cáo, đồng thời thể hiện sự nhân đạo khoan hồng của pháp luật.
Kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự:
I. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nghiêm Đình C.
II. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 290/2023/HSST ngày 28/12/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đ, Thành phố H.
Tuyên bố bị cáo Nghiêm Đình C phạm tội “Chứa mại dâm”.
Áp dụng: Điểm c khoản 2 Điều 327; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, xử phạt bị cáo:
Nghiêm Đình C 06 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 06/10/2023.
Bị cáo Nghiêm Đình C không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
III. Các quyết định của bản án sơ thẩm không kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 213/2024/HS-PT về tội chứa mại dâm
Số hiệu: | 213/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về