Bản án về tội chứa mại dâm số 103/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 103/2020/HS-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 96/2020/TLST-HS, ngày 15 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 100/2020/QĐXXST-HS, ngày 18 tháng 9 năm 2020; thông báo thay đổi thời gian xét xử vụ án hình sự số 02/2020/TB ngày 24/9/2020 đối với bị cáo:

Nịnh Văn T, sinh ngày 01/4/1962 tại huyện S, tỉnh Tuyên Quang.

Nơi cư trú: thôn L, xã L1, huyện S, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Kinh doanh dịch vụ lưu trú; trình độ văn hóa: 7/10; dân tộc: Cao Lan; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; bố đẻ: Nịnh Văn V, sinh năm 1927 (đã chết); mẹ đẻ: Hoàng Thị C, sinh năm 1925 (đã chết); vợ: Phan Thị T1, sinh năm 1963; con: có 03 con, lớn nhất sinh năm 1984, nhỏ nhất sinh năm 1992; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/8/2020 đến ngày 07/8/2020. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

*Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn K – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Chị Lò Thị H, sinh năm 1980, trú tại: Thôn B, xã X, huyện Y, tỉnh Yên Bái (vắng mặt).

- Người làm chứng:

2. Anh Nguyễn Bá D, sinh năm 1987, trú tại: Thôn T2, xã F, huyện S, tỉnh Tuyên Quang (vắng mặt).

3. Anh Lương Văn T3, sinh năm 1971, trú tại: Thôn T4, xã Q, huyện S, tỉnh Tuyên Quang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2016, Nịnh Văn T thuê nhà của ông Cao Đình P ở thôn Đ, xã H, huyện S để kinh doanh dịch vụ lưu trú nhà nghỉ T (có Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh dịch vụ lưu trú ngắn ngày do Phòng Tài chính – Kế hoạch huyện S cấp ngày 02/02/2015). Đến tháng 7 năm 2020, do việc kinh doanh ít khách không đảm bảo thu nhập nên Nịnh Văn T đã cho Lò Thị H là gái bán dâm ăn nghỉ tại phòng 203 của nhà nghỉ T nếu có khách mua dâm thì H bán dâm.

Hai bên thỏa thuận mỗi lần bán dâm T sẽ thu 250.000 đồng từ khách, quy định mỗi lần mua dâm là một lần quan hệ tình dục hoặc tính thời gian 30 phút kể từ khi người mua dâm vào phòng nhà nghỉ. Sau mỗi lần bán dâm, T trả cho H số tiền 120.000 đồng, T thu lợi 130.000 đồng, H đồng ý.

Khoảng 21 giờ 20 phút ngày 02/8/2020, Nguyễn Bá D đến nhà nghỉ T hỏi mua dâm, T đồng ý cho D mua dâm tại nhà nghỉ và thu 250.000 đồng, sau đó bảo D lên phòng 203 để quan hệ tình dục với H.

Khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, Tổ công tác Công an huyện Sơn Dương kiểm tra nhà nghỉ T phát hiện tại phòng 203 có Nguyễn Bá D và Lò Thị H có hành vi mua bán dâm.

Ngoài lần mua bán dâm trên, quá trình điều tra xác định T còn thực hiện nhiều lần chứa mại dâm (được ghi chép, theo dõi tại quyển sổ đã tạm giữ khi bắt quả tang), cụ thể:

Ngày 01/8/2020, T cho H bán dâm 12 lần vào hồi 08 giờ 00 phút, 08 giờ 35 phút, 13 giờ 00 phút, 15 giờ 10 phút, 15 giờ 20 phút, 20 giờ 00 phút, 20 giờ 40 phút, 21 giờ 45 phút, 21 giờ 50 phút, 22 giờ 05 phút, 23 giờ 00 phút và 00 giờ 05 phút ngày 02/8/2020. Tổng số tiền thu lời bất chính là 2.800.000 đồng (có 02 người nợ 50.000 đồng, 01 người nợ 100.000 đồng). T đã thanh toán cho H số tiền 1.000.000 đồng.

Ngày 02/8/2020, T cho H bán dâm 04 lần vào hồi 09 giờ 00 phút, 11 giờ 30 phút, 12 giờ 35 phút và 21 giờ 20 phút. Tổng số tiền thu lời bất chính là 1.000.000 đồng.

Tại kết luận giám định số 663/GĐ-KTHS ngày 04/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang kết luận: Chữ viết, chữ số trên mẫu cần giám định ký hiệu A với chữ viết, chữ số đứng tên Nịnh Văn T trên các mẫu so sánh ký hiệu M1, M2, M3 là do cùng một người viết.

Những người khách đến mua dâm, Nịnh Văn T và Lò Thị H đều không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu.

Như vậy, trong các ngày 01/8/2020 và 02/8/2020, Nịnh Văn T đã cho Lò Thị H bán dâm tổng số 16 lần tại phòng nghỉ 203 của nhà nghỉ T, thu lời bất chính tổng số 3.800.000 đồng (Ba triệu tám trăm nghìn đồng).

Tại Cáo trạng số 97/CT-VKSSD, ngày 14/9/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương đã truy tố Nịnh Văn T về tội “Chứa mại dâm” theo điểm c khoản 2 Điều 327 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị:

- Tuyên bố: Bị cáo Nịnh Văn T phạm tội: “Chứa mại dâm”.

- Áp dụng: Điểm c khoản 2 Điều 327; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Nịnh Văn T từ 05 (năm) năm đến 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, khấu trừ cho bị cáo thời gian bị bắt tạm giữ từ ngày 02/8/2020 đến ngày 07/8/2020. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Ngoài ra, Kiểm sát viên còn đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo, xử lý vật chứng, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, hành vi của bị cáo là bột phát, bị cáo có bố đẻ được tặng thưởng Huy chương Kháng chiến hạng nhất để xem xét khi lượng hình đối với bị cáo. Về hình phạt đề nghị áp dụng điểm c khoản 2 Điều 327; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử bị cáo mức án thấp nhất của khung hình phạt.

Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, không có tình tiết mới. Bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.

Kết thúc phần tranh tụng, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, tỏ thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất của khung hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa, bị cáo Nịnh Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Trong các ngày 01/8/2020 và ngày 02/8/2020, tại nhà nghỉ T thuộc thôn Đ, xã H, huyện S, tỉnh Tuyên Quang, Nịnh Văn T đã có hành vi 16 lần chứa mại dâm, thu lợi bất chính 3.800.000 đồng.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương truy tố bị cáo về tội “Chứa mại dâm” theo quy định tại theo điểm c khoản 2 Điều 327 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có bố đẻ được tặng thưởng Huy chương Kháng chiến hạng nhất. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3] Về mức án đại diện Viện kiểm sát đề nghị: Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm vào trật tự an toàn công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến nếp sống văn hóa mới và là môi trường lây lan các căn bệnh xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng vì mục đích vụ lợi đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, đã dùng nhà nghỉ do mình quản lý chứa mại dâm, thu lời bất chính, nên cần phải có hình phạt nghiêm minh, tương xứng với mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Do vậy, cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục các bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản riêng có giá trị không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng:

Đối với 01 bao cao su đã qua sử dụng, 01 vỏ bao cao su đã xé nhãn hiệu SILVER FOX màu đỏ đen là vật chứng của vụ án, không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 quyển vở kích thước (17x24cm), dòng kẻ ô ly bìa có in chữ trường tiểu học Đăng Châu, bên trong có 01 tờ giấy ghi nhiều chữ và số là vật chứng có trong hồ sơ cần tịch thu lưu hồ sơ vụ án.

Đối với số tiền 3.800.000 đồng Cơ quan điều tra đang tạm giữ (trong đó bị cáo T tự nguyện giao nộp 2.800.000 đồng, chị H tự nguyện giao nộp 1.000.000 đồng). Xét thấy đây là khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội mà có nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

[7] Về các vấn đề khác: Đối với hành vi mua bán dâm của Nguyễn Bá D và Lò Thị H, Công an huyện Sơn Dương đã ra Quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:

Quá trình điều tra và truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự và các văn bản pháp luật có liên quan. Khởi tố, điều tra, thu thập chứng cứ, truy tố đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ vào: Điểm c khoản 2 Điều 327; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

* Tuyên bố: Bị cáo Nịnh Văn T phạm tội Chứa mại dâm

*Xử phạt: Bị cáo Nịnh Văn T 05 (năm) năm tù. Khấu trừ cho bị cáo thời gian bị bắt tạm giữ từ ngày 02/8/2020 đến ngày 07/8/2020. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại thi hành án.

* Về vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 của Bộ luật Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bao cao su đã qua sử dụng, 01 vỏ bao cao su đã xé nhãn hiệu SILVER FOX màu đỏ đen.

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Sơn Dương và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Dương ngày 16/9/2020.

- Tịch thu lưu hồ sơ vụ án 01 quyển vở kích thước (17x24cm), dòng kẻ ô ly bìa có in chữ trường tiểu học Đăng Châu, bên trong có 01 tờ giấy ghi nhiều chữ và số.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 3.800.000đ (Ba triệu tám trăm ngàn đồng).

Số tiền trên đã được Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương chuyển vào tài khoản số 3949.0.106xxxx.00000 là tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự huyện Sơn Dương mở tại kho bạc Nhà nước huyện Sơn Dương ngày 16/9/2020.

* Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội:

Bị cáo Nịnh Văn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

sự:

* Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội chứa mại dâm số 103/2020/HS-ST

Số hiệu:103/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;