Bản án 05/2024/HS-ST về tội chứa mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ANH SƠN - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 05/2024/HS-ST NGÀY 27/03/2024 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 27 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân Huyện A S, Tỉnh N A xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 04/2024/TLST-HS ngày 20 tháng 02 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2023/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:

L TH H TH - sinh ngày 10 tháng 12 năm 1952 tại huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Tên gọi khác: không; nơi cư trú: thôn 5, xã Hội Sơn, Huyện A S, Tỉnh N A; nghề nghiệp: hưu trí; trình độ học vấn: lớp 7/10; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Đăng H và bà Lê Thị Đ (đều đã chết); Chồng: Trần Duy T sinh năm 1953 và 03 người con, con lớn nhất sinh năm 1982, con nhỏ nhất sinh năm 1994; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo hiện đang được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Duy T, sinh năm 1953.

Địa chỉ: Thôn 5, xã Hội Sơn, Huyện A S, Tỉnh N A. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Chị Hà Thị T2, sinh năm 1989. Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn 12, xã Hoa Sơn, Huyện A S, Tỉnh N A.

2. Anh Nguyễn Văn B2, sinh năm 1986. Vắng mặt.

Địa chỉ: Tổ dân phố 1, thị trấn Anh Sơn, Huyện A S, Tỉnh N A.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 25/12/2023, sau khi đi bán hàng về thì Hà Thị T2, sinh năm 1989 trú tại thôn 12, xã Hoa Sơn, Huyện A S, Tỉnh N A đến tại ki ốt của L TH H TH tại thôn 5, xã Hội sơn, Huyện A S, Tỉnh N A để ngồi nghỉ, uống nước. Quá trình ngồi uống nước T2 có tâm sự với Thi về cuộc sống khó khăn hiện tại của mình. Khi đó T2 hỏi Thi “dạo này ngoài buôn bán thì gì có cho thuê phòng trọ nữa không” thì Thi trả lời “Trước đây thì đang có học sinh qua lại thuê chứ bây giờ hầu như không có ai mà chủ yếu là người dân đi buôn chiếu qua đường thuê nghỉ mấy tiếng là họ trả”. Nghe vậy, T2 liền đặt vấn đề “gì có phòng để không đó, nếu gì biết khách nào có nhu cầu đi gái thì gọi cho cháu biết vì thời gian này cháu cũng đang cần tiền” thì Thi đồng ý và trao đổi với T2 “Nếu biết ai thì gì gọi, chuyện tiền nong do cháu với khách tự thỏa thuận nhưng cháu phải có trách nhiệm trả cho gì 50.000 đồng tiền thuê phòng là được” thì T2 đồng ý. Đến khoảng 12 giờ 30 phút ngày 29/12/2023, Nguyễn Văn B2, sinh năm 1986 trú tại Tổ dân phố 1, thị trấn Anh Sơn, Huyện A S, Tỉnh N A đến ki ốt của Thi và hỏi “ở đây có con em mô không bà” thì Thi trả lời “có, mi ưng tau đưa số điện thoại mà gọi hắn đến”. Tuy nhiên khi Thi đọc số điện thoại của T2 cho B2 gọi thì B2 nói số thuê bao của B2 đã hết tiền nên Thi đã chủ động gọi điện cho T2 và nói “ ra đi” thì T2 trả lời “ dạ”. Khoảng 30 phút sau T2 đến thì Thi nói “họ đang chờ trong phòng” đồng thời chỉ vị trí phòng cho T2 biết. Sau đó T2 đi vào bên trong phòng thuộc dãy nhà trọ của Thi nơi B2 đang chờ và đóng cửa phòng lại. Sau khi thống nhất tiền mua bán dâm là 300.000 đồng thì B2 và T2 cởi hết quần áo để thực hiện hành vi quan hệ tình dục với nhau. Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, Tổ công tác Công an huyện Anh Sơn và Công an thị trấn Anh Sơn tiến hành kiểm tra theo thủ tục hành chính đã phát hiện tại vị trí phòng ngủ trong khuôn viên chỗ ở do L TH H TH làm chủ sở hữu có Nguyễn Văn B2 và Hà Thị T2 đang có hành vi quan hệ tình dục với nhau. Tại hiện trường Tổ công tác đã phát hiện và tạm giữ 01 chiếc bao cao su đã qua sử dụng và số tiền 300.000 đồng để trong túi áo của T2 để trên giường là số tiền B2 trả tiền mua dâm, T2 chưa kịp thanh toán số tiền 50.000 đồng cho Thi như đã thỏa thuận từ trước.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Anh Sơn, Nguyễn Văn B2 và Hà Thị T2 đều khai nhận khi cả hai đang có hành vi mua, bán dâm với nhau tại nhà trọ do L TH H TH làm chủ sở hữu thì bị phát hiện và lập biên bản sự việc. Đến 17 giờ 30 phút cùng ngày L TH H TH đã đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Anh Sơn để đầu thú về hành vi phạm tội của mình.

- Về vật chứng:

Thu giữ 01 chiếc bao cao su đã qua sử dụng; 01 chiếc điện thoại di động, loại màn hình cảm ứng màu đen nhãn hiệu OPPOA3s đã qua sử dụng có gắn số thuê bao 08656622xx của Hà Thị T2; 01 chiếc điện thoại di động màu đen, nhãn hiệu Masstel đã qua sử dụng gắn số thuê bao 03357005xx của L TH H TH. Hiện tại các vật chứng trên đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự Huyện A S, Tỉnh N A.

Thu giữ của Hà Thị T2 300.000 đồng tiền ngân hàng Nhà Nước Việt Nam, gồm (01 tờ tiền polyme mệnh giá 200.000 đồng, 02 tờ tiền polyme mệnh giá 50.000 đồng). Hiện đang được bảo quản tại Kho bạc Nhà Nước Huyện A S, Tỉnh N A.

Cáo trạng số 07/CT-VKS-AS ngày 15/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Anh Sơn đã truy tố bị cáo L TH H TH về tội “Chứa mại dâm” theo quy định tại khoản 1 Điều 327 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Bản thân bị cáo ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Anh Sơn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo L TH H TH về tội “Chứa mại dâm” và đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 327; điểm s, o, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo L TH H TH mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù chưng cho hương án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng; miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo; tịch thu sung quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại di động, loại màn hình cảm ứng màu đen nhãn hiệu OPPOA3s đã qua sử dụng có gắn số thuê bao 08656622xx của Hà Thị T2; 01 chiếc điện thoại di động màu đen, nhãn hiệu Masstel đã qua sử dụng gắn số thuê bao 03357005xx của L TH H TH.và số tiền 300.000 đồng do phạm tội mà có; Tịch thu tiêu hủy vật chứng của vụ án; Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều thực hiện đúng pháp luật.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo L TH H TH đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làn chứng, vật chứng thu giữ và các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Do có thống nhất và thỏa thuận từ trước, nên vào khoảng 13 giờ 30 ngày 29/12/2023, tại Thôn 5, xã Hội Sơn, Huyện A S, Tỉnh N A. L TH H TH đã sử dụng điện thoại di động gọi cho Hà Thị T2 đến dãy trọ do mình làm chủ sở hữu để T2 và Nguyễn Văn B2 thuê phòng sử dụng vào việc mua bán dâm, nhằm mục đích thu lợi bất chính số tiền 50.000 đồng (năm mươi ngàn đồng). Khi B2 và T2 đang có hành vi quan hệ tình dục với nhau thì bị Tổ công tác Công an huyện Anh Sơn phối hợp với Công an thị trấn Anh Sơn, Huyện A S, Tỉnh N A phát hiện lập biên bản sự việc. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Như vậy Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết tội bị cáo L TH H TH phạm tội “Chứa mại dâm” theo quy định tại khoản 1 Điều 327 của Bộ luật hình sự như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Anh Sơn là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án: Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm lớn cho xã hội, trực tiếp là xâm phạm đến trật tự công cộng được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục, đạo đức tốt đẹp của người Việt Nam và là môi trường lây lan các căn bệnh truyền nhiễm khác đặc biệt là HIV/AIDS. Bị cáo là người có năng lực trách trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi chứa mại dâm là vi phạm pháp luật, nhưng do mục đích hám lợi nên bị cáo đã bất chấp, dẫn đến việc phạm tội nên cần phải xử phạt nghiêm để bị cáo lao động cải tạo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[4] Xét về các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo thấy rằng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng có các tình tiết giảm nhẹ là người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là người có công với cách mạng được nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì, sau khi phạm tội đã ra đầu thú. Đó là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm điểm s, o, x khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Như vậy, xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng nên xét thấy chưa cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng điều 65 của Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo đồng thời giao cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án cũng đủ để răn đe giáo dục bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 327 của Bộ luật hình sự bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là hình phạt tiền nhưng xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: 01 chiếc bao cao su đã qua sử dụng là vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động, loại màn hình cảm ứng màu đen nhãn hiệu OPPOA3s đã qua sử dụng có gắn số thuê bao 08656622xx của Hà Thị T2; 01 chiếc điện thoại di động màu đen, nhãn hiệu Masstel đã qua sử dụng gắn số thuê bao 03357005xx của L TH H TH là công cụ, phương tiện liên lạc mua bán dâm nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Đối với số tiền 300.000 đồng do phạm tội mà có nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[7] Đối với Hà Thị T2 và Nguyễn Văn B2 đã có hành vi mua bán dâm, ngày 03/01/2024 Cơ quan Công an Huyện A S, Tỉnh N A đã ra quyết định xử phạt hành chính là đúng theo quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 327; điểm s, o, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự;

Tuyên bố bị cáo L TH H TH phạm tội “Chứa mại dâm”.

Xử phạt bị cáo L TH H TH 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (hai) năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 27/3/2024.

Giao bị cáo L TH H TH cho chính quyền địa phương UBND xã Hội Sơn, Huyện A S, Tỉnh N A giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục đối với bị cáo theo quy định tại Điều 94 của Luật thi hành án hình sự và Điều 65 của Bộ luật hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc bao cao su đã qua sử dụng.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động, loại màn hình cảm ứng màu đen nhãn hiệu OPPOA3s đã qua sử dụng có gắn số thuê bao 08656622xx của Hà Thị T2; 01 chiếc điện thoại di động màu đen, nhãn hiệu Masstel đã qua sử dụng gắn số thuê bao 03357005xx của L TH H TH Vật chứng nêu trên có đặc điểm được ghi tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 213/2024 giữa Công an huyện Anh Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự Huyện A S, Tỉnh N A.

Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 300.000 đồng do phạm tội mà có. Toàn bộ số tiền trên đang được niêm phong gửi tại Kho bạc nhà nước Huyện A S, Tỉnh N A có đặc điểm theo biên bản giao nhận tài sản số 01/2024/BBBG- CAHAS ngày 05 tháng 01 năm 2024 giữa cơ quan Công an huyện Anh Sơn và Kho bạc nhà nước Huyện A S, Tỉnh N A.

- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo L TH H TH phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

65
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 05/2024/HS-ST về tội chứa mại dâm

Số hiệu:05/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Anh Sơn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;