Bản án 124/2022/HS-ST về tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 124/2022/HS-ST NGÀY 20/06/2022 VỀ TỘI CHỨA CHẤP SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 20 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 93/2022/TLST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 111/2022/QĐXXST-HS ngày 6 tháng 6 năm 2022 đối với các bị cáo:

1/ Đoàn Quốc T, sinh ngày 09 tháng 10 năm 1974; tại: Hải Dương; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu N, phường A, thành phố H, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đoàn Quốc X và bà Hoàng Thị Y; Vợ Vũ Thị Z, sinh năm 1975 và có 03 con, lớn sinh năm 1994, nhỏ sinh năm 2012; Tiền án: Không; Tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt theo biên bản bắt người phạm tội quả tang từ ngày 18/10/2021 hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an thành phố Hà Nội. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2/ Trần Yến N, sinh ngày 01 tháng 01 năm 1989; tại: Hậu Giang; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu vực 3, phường L, thành phố N, tỉnh Hậu Giang; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh ; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn T và bà Nguyễn Thị D; Chồng Nguyễn Minh K (đã ly hôn) và có 02 con lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2015; Tiền án: Không; Tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt theo biên bản bắt người phạm tội quả tang từ ngày 18/10/2021 hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an thành phố Hà Nội. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/ Chị Lương Thị S1, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Xã T, huyện L, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

2/ Chị Dương Thị Thu H, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Xã V, huyện B, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đoàn Quốc T- Sinh năm (SN); 1974 quê ở phường A, thành phố H, tỉnh Hải Dương và Trần Yến N- SN: 1989 quê ở phường L, thị xã N, tỉnh Hậu Giang có quan hệ tình cảm và chung sống với nhau tại khu nhà dựng bằng khung sắt, quây tôn, có tường ngăn (nhà kho khu V3, KĐT V, phường L, quận H) của Công ty S giao cho Ban quản lý dự án KĐT V do ông Nguyễn Tiến S2 làm Giám đốc từ tháng 6/2021. Do T từng làm bảo vệ của Ban quản lý dự án Công ty S từ năm 2018, biết nhà kho của công ty không sử dụng nên đã tự mang đồ đạc của mình vào đó để ở từ khoảng tháng 6/2020. Đến tháng 6/2021 Trần Yến N có dọn từ nơi trọ về ăn ở sinh hoạt cùng T tại khu nhà kho của công ty, N được T giao cho 01 khóa cửa. Khi dọn đồ từ nơi ở cũ (nhà thuê trọ) chuyển đến chỗ ở của T, N có nhặt được 02 viên ma túy tổng hợp dạng “kẹo” và 01 túi ma túy ketamin (không rõ nguồn gốc), N cất đi để sử dụng.

Khoảng 20 giờ ngày 17/10/2021, N đang ở bãi trông xe cùng T ở địa chỉ: số 20 LK14 KĐT V, phường L thì nhắn tin cho bạn là Lương Thị S1- SN: 1990 quê ở xã T, huyện L, tỉnh Thanh Hóa rủ đến chỗ ở của N và T để ăn cơm, uống rượu bia và sử dụng ma túy. S1 đồng ý và rủ thêm Dương Thị Thu H- SN: 1991 quê ở xã V, huyện B, tỉnh Bắc Kạn (bạn của S1) cùng đến. Sau khi N, T, S1 và H ăn uống xong ở bãi trông xe của T (cách chỗ ở của T khoảng 100m), khoảng 00 giờ ngày 18/10/2021 N rủ T và mọi người về chỗ ở của T tại lán nhà kho khu V để sử dụng ma túy. Sau đó, N, S1 và H đi về trước, còn T chưa hết giờ trông xe nên đi về sau. Về đến nơi, N, S1 và H cùng vào phòng ngủ bên trong lán, N lấy 02 viên ma túy tổng hợp dạng “kẹo” ra rồi bẻ làm đôi mỗi viên đưa cho S1, H cùng mình sử dụng (mỗi người 1/2 viên), còn 1/2 viên để dành cho T. Khoảng 01 giờ cùng ngày, hết giờ trông xe T đi về lán thì H lấy 1/2 viên ma túy “kẹo” còn lại đưa cho T sử dụng. Sau đó, N nói với T “Anh có cái thẻ nào không”, T lấy trong ví ra 01 Giấy phép lái xe dạng thẻ cứng của T đưa cho N. Lúc này, N lấy 01 túi ma túy tổng hợp ketamin của mình đổ ra đĩa sứ rồi dùng bật lửa hơ dưới đáy đĩa và dùng giấy phép lái xe của T để “xào ke”, còn H lấy tờ tiền 20.000 đồng đưa cho S1 để làm ống hút ma túy. Xào ke xong, N chia thành 04 phần để mọi người sử dụng bằng hình thức hít vào cơ thể. Sử dụng xong, tất cả nằm nghe nhạc trong phòng đến khoảng 05 giờ 30 phút cùng ngày thì bị tổ công tác Công an phường La Khê, quận Hà Đông phát hiện, bắt quả tang (bút lục 34 đến 46). Vật chứng thu giữ, gồm:

- 01 đĩa sứ màu trắng trên bề mặt đĩa có dính chất bột màu trắng; 01 Giấy phép lái xe tên Đoàn Quốc T; 01 túi nilong KT (4x4)cm bên trong có dính chất bột màu trắng.

- 01 loa màu đen có chữ NEXO KT (42x108x45)cm; 01 âm ly bề mặt có chữ CAVS; 01 thiết bị công suất; 01 đèn màu có vỏ màu đen;

- 03 điện thoại di động các loại (01 điện thoại Iphone XS Max màu vàng của Trần Yến N; 01 điện thoại Iphone XS Max màu trắng của Lương Thị S1 và 01 điện thoại Oppo màu đen của Đoàn Quốc T).

Công an phường La Khê đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đoàn Quốc T, Trần Yến N, Dương Thị Thu H và Lương Thị S1, niêm phong vật chứng đưa về trụ sở, sau bàn giao cho Cơ quan CSĐT Công an quận Hà Đông điều tra xử lý.

Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đoàn Quốc T tại nhà kho khu đất của Công ty S ở khu V3, KĐT V, phường L, quận H không thu giữ được gì. Ngày 18/10/2021, Cơ quan điều tra quyết định trưng cầu giám định mẫu niêm phong thu giữ ở hiện trường vụ án. Tại bản kết luận giám định số 7596/KLGĐ-PC09 ngày 26/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an thành phố Hà Nội (bút lục 67), kết luận:

“- 01 đĩa sứ, 01 túi nilông kích thước (4x4)cm, 01 giấy phép lái xe mang tên Đoàn Quốc T đều có dính ma túy loại Ketamine”.

Về nguồn gốc ma túy: Trần Yến N khai nhận là của N nhặt được khi chuyển nhà trọ, dọn đồ về ở với Đoàn Quốc T, không rõ là của ai.

Đối với lán nhà kho ở khu V3, KĐT V, phường L, quận H, xác định của Công ty S giao cho Ban quản lý dự án KĐT V (do ông Nguyễn Tiến S2 làm Giám đốc từ tháng 4/2021). Đoàn Quốc T sử dụng để ăn ở và sinh hoạt tại đây, không xin phép và ký kết hợp đồng gì với ai cả.

Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Đoàn Quốc T, Trần Yến N, Lương Thị S1 và Dương Thị Thu H. Ngày 17/11/2021 và ngày 28/01/2022, Công an quận Hà Đông đã ra quyết định xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 97/CT-VKS-HĐ ngày 04/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông đã truy tố Đoàn Quốc T về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 256 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Trần Yến N về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b khoản2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Đoàn Quốc T và bị cáo Trần Yến N vẫn giữ nguyên các lời khai của mình như đã khai tại cơ quan điều tra, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình bị truy tố như vậy là đúng người đúng tội không oan sai.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Đoàn Quốc T và bị cáo Trần Yến N như tội danh và điều luật đã viện dẫn tại bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 256; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Đoàn Quốc T từ 7 năm đến 7 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt phạm tội quả tang 18/10/2021.

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 255; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Trần Yến N từ 7 năm đến 7 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt phạm tội quả tang 18/10/2021.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt tiền đối với các bị cáo. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 .

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 đĩa sứ màu và 01 túi nilong kích thước 4x4cm được niêm phong lại bằng giấy và được dán kín. Tại mép dán có chữ ký của đối tượng Đoàn Quốc T, Trần Yến N, Lương Thị S1, Dương Thị H, cán bộ Công an phường La Khê Nguyễn Tân Anh và giám định viên Nguyễn Thị Thành.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước:

- 01 loa màu đen có chữ NEXO KT (42x108x45)cm; 01 âm ly bề mặt có chữ CAVS; 01 thiết bị công suất; 01 đèn nháy có vỏ màu đen;

- 01 điện thoại Iphone XS Max màu vàng, thu của Trần Yến N; 01 điện thoại Iphone XS Max màu trắng, thu của Lương Thị S1 và 01 điện thoại Oppo màu đen, thu của Đoàn Quốc T.

Trả lại cho bị cáo: 01 giấy phép lái xe mang tên Đoàn Quốc T được niêm phong trong 01 phong bì dán kín, tại các mép dán có chữ ký của đối tượng Đoàn Quốc T, Trần Yến N, Lương Thị S1, Dương Thị H, cán bộ Công an phường La Khê Nguyễn Tân Anh và giám định viên Nguyễn Thị Thành Bị cáo Đoàn Quốc T và bị cáo Trần Yến N không có tranh luận gì với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình là vi phạm pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hà Đông, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân quận Hà Đông trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa , bị cáo Đoàn Quốc T và bị cáo Trần Yến N không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2].Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Đoàn Quốc T và bị cáo Trần Yến N đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng đã thu giữ trong vụ án và kết luận giám định. Đủ cơ sở kết luận: Năm 2018, Đoàn Quốc T làm bảo vệ cho Ban quản lý dự án Công ty S, sau thì nghỉ. Biết nhà kho ở khu V3, KĐT V, phường L, quận H, thành phố Hà Nội của Công ty không sử dụng, T đã dọn đồ đạc đến ăn ở, sinh hoạt (không có hợp đồng và xin phép người có thẩm quyền), tiếp đó có Trần Yến N bạn gái chung sống với T đến ở cùng. Khoảng 00 giờ ngày 18/10/2021, tại nhà này Trần Yến N có hành vi rủ rê T và 02 bạn của N là Lương Thị S1 và Dương Thị Thu H tới, sau N lấy 02 viên ma túy tổng hợp dạng “kẹo” của mình bẻ đôi thành 4 nửa viên, rồi đổ ma túy ketamine ra đĩa xào lên để mọi người sử dụng, sử dụng xong thì nằm nghe nhạc (T về sau cũng vào sử dụng). Đến khoảng 05 giờ 30 phút cùng ngày đã bị Công an phường La Khê, quận Hà Đông phát hiện, bắt quả tang. Giám định các đồ vật, công cụ thu được tại nơi sử dụng đều có dính ma túy Ketamine. Hành vi rủ rê và cung cấp trái phép chất ma túy cho 03 đối tượng (Đoàn Quốc T, Lương Thị S1 và Dương Thị Thu H) cùng mình sử dụng, thì Trần Yến N đã phạm tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” thuộc trường hợp định khung “Đối với 02 người trở lên” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Đối với Đoàn Quốc T mặc dù biết rõ Trần Yến N, Lương Thị S1 và Dương Thị Thu H sử dụng trái phép chất ma túy tại chỗ ở của mình (chiếm hữu bất hợp pháp của Công ty S), đã đồng tình và cùng vào sử dụng. Hành vi đó đã đủ yếu tố cấu thành tội “Chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp định khung “Đối với 02 người trở lên” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 256 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông truy tố bị cáo Đoàn Quốc T và bị cáo Trần Yến N theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3]. Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của các bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự coi thường pháp luật, xâm phạm sự quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm an ninh trật tự an toàn xã hội. Ma túy là chất gây nghiện làm hủy hoại sức khỏe con người, làm sói mòn đạo đức xã hội và còn là nguyên nhân gây ra nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác.

[4]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Đoàn Quốc T và bị cáo Trần Yến N không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Đoàn Quốc T và bị cáo Trần Yến N đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải hành vi phạm tội của mình, do đó bị cáo đủ điều kiện hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo Đoàn Quốc T có bố đẻ có thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước được tặng thưởng huy chương kháng chiến, vì vậy đủ điều kiện hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

[6]. Về quyết định hình phạt: Sau khi xem xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy bị cáo Đoàn Quốc T và bị cáo Trần Yến N là người đã trưởng thành, có sức khỏe, biết rất rõ tác hại của ma túy và đường lối xử lý của pháp luật, nhưng vẫn cố ý phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý, thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng, vì vậy cần phải được xử lý nghiêm khắc trước pháp luật cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo cũng như đảm bảo công tác đấu tranh và phòng chống tội phạm.

[7]. Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệpổn định do vậy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 [8]. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 .

Đối với: 01 đĩa sứ màu và 01 túi nilong kích thước 4x4cm được niêm phong lại bằng giấy và được dán kín. Tại mép dán có chữ ký của đối tượng Đoàn Quốc T, Trần Yến N, Lương Thị S1, Dương Thị H, cán bộ Công an phường La Khê Nguyễn Tân Anh và giám định viên Nguyễn Thị Thành là các tang vật liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với : 01 loa màu đen có chữ NEXO KT (42x108x45)cm; 01 âm ly bề mặt có chữ CAVS; 01 thiết bị công suất; 01 đèn nháy có vỏ màu đen; 01 điện thoại Iphone XS Max màu vàng, thu của Trần Yến N; 01 điện thoại Iphone XS Max màu trắng, thu của Lương Thị S1 và 01 điện thoại Oppo màu đen, thu của Đoàn Quốc T là các đồ vật các bị cáo sử dụng liên quan đến hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Đối với: 01 giấy phép lái xe mang tên Đoàn Quốc T sau khi giám định xong được niêm phong vào phong bì dán kín, tại các mép dán có chữ ký của đối tượng Đoàn Quốc T, Trần Yến N, Lương Thị S1, Dương Thị H, cán bộ Công an phường La Khê Nguyễn Tân Anh và giám định viên Nguyễn Thị Thành là tài sản cá nhân của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo Đoàn Quốc T.

[9]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016.

[10]. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Vì các lẽ trên! 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố : Bị cáo Đoàn Quốc T phạm tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo Trần Yến N phạm tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.

Căn cứ: Điểm d khoản 2 Điều 256; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Đoàn Quốc T 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt phạm tội quả tang 18/10/2021.

Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Trần Yến N 07 (bảy) năm tù . Thời hạn tù tính từ ngày bắt phạm tội quả tang 18/10/2021.

2. Về xử lý vật chứng :

Căn cứ: Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 đĩa sứ màu và 01 túi nilong kích thước 4x4cm được niêm phong lại bằng giấy và được dán kín. Tại mép dán có chữ ký của đối tượng Đoàn Quốc T, Trần Yến N, Lương Thị S1, Dương Thị H, cán bộ Công an phường La Khê Nguyễn Tân Anh và giám định viên Nguyễn Thị Thành;

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 loa màu đen có chữ NEXO KT (42x108x45)cm; 01 âm ly bề mặt có chữ CAVS; 01 thiết bị công suất; 01 đèn nháy có vỏ màu đen; 01 điện thoại Iphone XS Max màu vàng, thu của Trần Yến N; 01 điện thoại Iphone XS Max màu trắng, thu của Lương Thị S1 và 01 điện thoại Oppo màu đen, thu của Đoàn Quốc T.

Trả lại cho bị cáo Đoàn Quốc T 01 giấy phép lái xe mang tên Đoàn Quốc T sau khi giám định xong được niêm phong vào phong bì dán kín, tại các mép dán có chữ ký của đối tượng Đoàn Quốc T, Trần Yến N, Lương Thị S1, Dương Thị H, cán bộ Công an phường La Khê Nguyễn Tân Anh và giám định viên Nguyễn Thị Thành.

(Tất cả vật chứng trên theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 26/5/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hà Đông, thành phố Hà Nội).

3. Về án phí : Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về về mức thu, miễn giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Đoàn Quốc T và bị cáo Trần Yến N mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo :

Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 124/2022/HS-ST về tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy

Số hiệu:124/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;