Bản án 65/2023/HS-PT về tội chống người thi hành công vụ

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 65/2023/HS-PT NGÀY 09/05/2023 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 09 tháng 5 năm 2023, tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 12/2023/TLPT-HS ngày 30/01/2023 đối với bị cáo Trịnh Văn T; do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 70/2022/HS-ST ngày 13/12/2022 của Toà án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

* Bị cáo kháng cáo:

1. Bị cáo Trịnh Văn T, sinh năm 1960, tại: Hà Nội; nơi ĐKHKTT: Thôn PH, xã PT, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 9/10; nghề nghiệp: Làm nông; con ông Trịnh Văn Bàn (chết) và bà Lê Thị Dậu (chết); vợ Nguyễn Thị L, sinh năm 1970, bị cáo có 03 người con, lớn nhất sinh năm 1996, nhỏ sinh năm 2002. tiền án; tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/5/2022 đến ngày 20/7/2022 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

Ngưi bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Thị S, Nguyễn Thị M – Trung tâm tư vấn pháp luật VICCA tại Miền nam. Luật sư M có mặt.

Trong vụ án này, còn có các bị cáo khác không kháng cáo, vụ án không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 10/5/2018, Công chức Địa chính xã Phúc Thọ, Công an, Quân Sự và Ban nhân dân Thôn PH, xã PT xuống hiện trường Thôn PH, xã PT kiểm tra, xác minh tại thửa đất số 551, tờ bản đồ số 33 (đất thuộc Trường Mẫu giáo xã Phúc Thọ). Qua kiểm tra xác định ông Trịnh Văn T, sinh năm 1960, nơi cư trú: Thôn PH, xã PT, huyện Lâm Hà tự ý, lấn, chiếm toàn bộ diện tích 3.800m² từ ngày 20/05/2016. Cụ thể: ông Tý đã xây dựng nhà cấp 4 với diện tích dài 25m x rộng 6,95m, gồm 05 phòng, mỗi phòng có diện tích 5m x 6,95m, tường gạch, mái tôn, nền gạch men. Phía trước nhà lắp đặt mái vòm có kích thước 25m x 4,75m (khung sắt, lợp tôn, nền xi măng), diện tích còn lại, ông Tý trồng cây dâu tằm và cây hàng năm.

UBND xã Phúc Thọ đã lập biên bản vi phạm hành chính số 12/BB-CPHC ngày 10/5/2018 về lĩnh lực đất đai đối với ông Trịnh Văn T. Ngày 14/5/2018, Chủ tịch UBND xã Phúc Thọ ban hành Quyết định số 73/QĐ-XPVPHC về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai đối với ông Trịnh Văn T.

Ngày 29/05/2018, UBND xã Phúc Thọ lập biên bản kiểm tra về việc chấp hành Quyết định số 73/QĐ-XPVPHC ngày 14/5/2018 của Chủ tịch UBND xã Phúc Thọ đối với ông Trịnh Văn T. Qua kiểm tra, ông Trịnh Văn T không chấp hành nộp phạt tiền 4 triệu đồng, không chấp hành biện pháp khắc phục hậu quả (buộc khôi phục lại tình trạng của đất trước khi vi phạm, tự tháo dỡ, di dời công trình xây dựng và các tài sản khác gắn liền với đất lấn, chiếm).

Ngày 05/06/2018, UBND xã Phúc Thọ ban hành Quyết định số 80/QĐ- CCXP về việc Cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả đối với ông Trịnh Văn T. UBND xã Phúc Thọ đã thông báo đôn đốc 03 lần, yêu cầu ông Trịnh Văn T tự giác chấp hành các biện pháp khắc phục hậu quả nhưng ông Trịnh Văn T không chấp hành.

Ngày 26/04/2022, Đoàn Cưỡng chế của UBND xã Phúc Thọ ban hành kế hoạch số 21/KH-ĐCC cưỡng chế, giải tỏa công trình xây dựng, cây trồng và các loại tài sản khác ra khỏi khu vực đất lấn, chiếm đối với ông Trịnh Văn T cư trú tại Thôn PH, xã PT, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

Trước đó vào ngày 19/6/2017, UBND xã Phúc Thọ cũng đã ban hành Quyết định số 361/QĐ-UBND V/v thu hồi đất chuyên dùng do Trường Mẫu giáo Phúc Thọ 1 giao cho Ủy ban nhân dân huyện Lâm Hà quản lý.

Thực hiện Kế hoạch cưỡng chế, giải tỏa công trình xây dựng, cây trồng và các loại tài sản khác ra khỏi khu vực đất lấn, chiếm đối với ông Trịnh Văn T, cư trú tại Thôn PH, xã PT, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Đoàn cưỡng chế, giải tỏa xã Phúc Thọ tiến hành cưỡng chế, giải tỏa vào sáng ngày 12/5/2022 gồm Đoàn cưỡng chế và lực lượng hỗ trợ và đã thông báo cho ông Trịnh Văn T được biết trước khi tiến hành giải tỏa.

Khi biết UBND xã Phúc Thọ sẽ tiến hành cưỡng chế, giải tỏa vào sáng ngày 12/05/2022 nên buổi tối ngày 11/05/2022, Trịnh Văn T có nói với vợ là Nguyễn Thị L, sinh năm 1970, nơi cư trú: Thôn PH, xã PT, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng là bằng giá nào cũng phải giữ lại đất của gia đình mình và Trịnh Văn T nói con gái là Trịnh Thị Thuấn A, sinh năm 1996, nơi cư trú: Thôn PH, xã PT, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng chở chăn màn và một số vật dụng gồm dao, máy cưa, máy phát cỏ lên dãy nhà bị giải tỏa để Trịnh Văn T ngủ. Tối cùng ngày thì có Trịnh Công Th, sinh năm 1997, nơi cư trú: Thôn PH, xã PT, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng (con trai Trịnh Văn T) và Phạm Ngọc Chi Kh, sinh năm 1988, nơi cư trú: thôn Thanh Bình 1, xã Bình Thạnh, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng (là bạn trai của Trịnh Thị Thuấn A) cũng ngủ tại dãy nhà này. Đến sáng sớm ngày 12/05/2022, Nguyễn Thị L cầm theo 01 bịch ớt bột và cùng Trịnh Thị Thuấn A đi đến dãy nhà bị giải tỏa, sau đó Trịnh Thị Thuấn A đi mua 01 can xăng mang về rồi cùng Nguyễn Thị L trộn ớt bột với cát để mục đích ngăn cản đoàn cưỡng chế tiến vào giải tỏa căn nhà của gia đình mình.

Khoảng 08h00’ ngày 12/05/2022, đoàn cưỡng chế của UBND xã Phúc Thọ đến tại địa điểm giải tỏa là khu vực dãy nhà do Trịnh Văn T xây dựng trái phép để tiến hành cưỡng chế giải tỏa theo kế hoạch. Tuy nhiên khi Trưởng Đoàn cưỡng chế - ông Nguyễn Văn Danh đọc Quyết định cưỡng chế, yêu cầu gia đình Trịnh Văn T chấp hành để Đoàn cưỡng chế tiến hành giải tỏa công trình xây dựng thì gia đình Trịnh Văn T không chấp hành, có thái độ chống đối quyết liệt, cầm hung khí đứng ngang trước khu vực giải tỏa để cản trở, không cho lực lượng giải tỏa thi hành nhiệm vụ. Trịnh Văn T cầm trên tay trái một bịch cát trộn ớt bột, bên hông phải dắt 01 vỏ dao có một con dao dài 43cm, chuôi dao bằng gỗ màu vàng, mũi nhọn; Nguyễn Thị L cầm trên tay một bịch cát trộn ớt bột, một con dao màu trắng dài 31cm, chuôi dao bằng nhựa màu đen, mũi dao bằng; Trịnh Thị Thuấn A đội nón bảo hiểm, trên tay cầm 01 chiếc cưa máy; Trịnh Công Th vác trên vai máy cắt cỏ hiệu  MARUXXXXX, lưỡi cắt có đường kính 24cm, tay phải cầm dao dài khoảng 40cm; Phạm Ngọc Chi Kh đứng dàn hàng ngang trên dãy nhà. Khi lực lượng hỗ trợ cưỡng chế gồm lực lượng Công an, dân quân tự vệ tiến tới thì Trịnh Văn T và gia đình liên tục chửi và đe dọa không cho đoàn giải tỏa thi hành nhiệm vụ. Trịnh Công Th liên tục nổ máy cắt cỏ, đưa lưỡi cắt cỏ về phía lực lượng chức năng và liên tục đi qua đi lại không cho lực lượng chức năng tiến vào. Trịnh Thị Thuấn A cầm trên tay cưa máy màu đỏ nhãn hiệu XXXXXTTH bên tay trái, tay phải cầm tô cát pha ớt bột. Đoàn Cưỡng chế tiếp tục đọc qua loa, tuyên truyền vận động gia đình Trịnh Văn T chấp hành và dừng ngay các hành động chống đối lực lượng chức năng đang thi hành công vụ nhưng Trịnh Văn T cùng gia đình hung hăng, thách thức lực lượng chức năng không cho lực lượng giải tỏa tiến vào. Khi Đoàn Cưỡng chế tiến vào thì Thành tiếp tục lia máy cưa về phía Đoàn cưỡng chế, Tý và Thuấn Anh ném cát và ớt bột vào Đoàn cưỡng chế buộc lực lượng hỗ trợ phải xịt hơi cay để đảm bảo an toàn. Lúc này, Đoàn cưỡng chế khống chế Trịnh Văn T thì Thuấn Anh đổ xăng vào nhà, Khanh xách can xăng 30 lít đổ hết ra hành lang dãy phòng trọ để dọa ngăn cản không cho đoàn cưỡng chế tiến vào. Thuấn Anh thấy lửa cháy trong phòng và cầm ống nhựa PVC hiệu Bình Minh dài khoảng 4 mét đánh vào lực lượng thi hành nhiệm vụ giải tỏa, Nguyễn Thị L cầm dao đe dọa, ngăn cản không cho đoàn giải tỏa thi hành công vụ. Đoàn cưỡng chế bắt buộc xịt hơi cay và khống chế được Nguyễn Thị L còn Trịnh Văn T và Trịnh Công Th tiếp tục rút ra vườn cà phê phía sau khu vực dãy nhà bị cưỡng chế, tháo dỡ. Lúc này máy cắt cỏ hết xăng tắt máy nên Thành bỏ chạy, lực lượng cưỡng chế đã khống chế được Trịnh Văn T, Trịnh Thị Thuấn A. Cơ quan Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trịnh Văn T, Nguyễn Thị L và Trịnh Thị Thuấn A và áp giải các đối tượng về trụ sở làm việc. Trịnh Công Th sau khi bỏ trốn đến 13h 30’ cùng ngày đã đến Công an xã Phúc Thọ đầu thú.

Vật chứng thu giữ: 01 bếp ga mini màu xanh dương đã hư hỏng; 01 bình ga mi ni nhãn hiệu Max đã cũ; 01 bình nước lọc màu xanh dương loại 20l bị móp méo, biến dạng; 01 máy cưa cầm tay hiệu Oshima Chainsaw, lam cưa hiệu hyundai; 01 máy cắt cỏ hiệu  MARUXXXXX, 01 bịch nilong đựng cát trộn ớt bột;

01 tô nhựa màu đỏ, đường kính 28cm; 01 tô sứ màu trắng đường kính 28cm; 01 tô nhựa màu trắng xanh bị cháy xém, đường kính 21cm; 01 tô nhựa màu trắng xanh, đường kính 28cm; 01 con dao dài 33cm, cán bằng gỗ màu nâu, lưỡi dao hoen rỉ;

01 con dao dài 24cm, cán nhựa màu đen, lưỡi dao bằng kim loại trắng, sáng, mũi nhọn; 01 con dao dài 31cm, cán nhựa màu đen, lưỡi dao bằng kim loại trắng, sáng, mũi nhọn; 02 con dao loại dao chặt, cán gỗ, đầu vuông, lưỡi dao bằng kim loại sáng; 01 can đựng dầu nhớt hiệu Castrol màu xám; 01 chai thuốc xịt côn trùng hiệu Red Fox màu hồng xanh; 01 can đựng dầu nhớt hiệu SP Super Force loại 1 lít đã bị cháy xém biến dạng; 05 chai lọ bằng nhựa đã bị cháy xém, biến dạng; 01 ống nhựa màu xám hiệu Bình minh 3,4cm x 2m đã bị cháy xém biến dạng một đầu; 01 bao tải màu trắng đựng cát, lượng cát khoảng ¼ bao; 01 can nhựa loại 30lít màu nâu bị cháy xém một phần, biến dạng, trong can có đựng khoảng ¾ dung dịch nghi là xăng; 01 can nhựa loại 10 lít bị biến dạng một phần;

01 can nhựa loại 30 lít màu trắng, trong can còn đựng khoảng ¼ dung dịch nghi là xăng; 01 con dao loại dao đi rừng dài 43 cm, cán dao bằng gỗ màu vàng, lưỡi dao bằng kim loại, mũi nhọn.

Tại bản cáo trạng số 58/CT-VKS ngày 07 tháng 10 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà đã truy tố các bị cáo Trịnh Văn T, Trịnh Công Th, Trịnh Thị Thuấn A, Nguyễn Thị L, Phạm Ngọc Chi Kh về tội “Chống người thi hành công vụ” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 70/2022/HS-ST ngày 13/12/2022 của Toà án nhân dân huyện Lâm Hà đã xử;

Tuyên bố các bị cáo Trịnh Văn T, Trịnh Công Th, Trịnh Thị Thuấn A, Nguyễn Thị L, Phạm Ngọc Chi Kh phạm tội: “Chống người thi hành công vụ”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt:

Bị cáo Trịnh Văn T 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày thi hành án, nhưng được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/5/2022 đến ngày 20/7/2022.

- Áp dụng khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt:

Bị cáo Trịnh Công Th 12 (mười hai) tháng tù cho hưởng án treo thời gian thử thách là 24 (hai bốn) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 13/12/2022.

- Áp dụng khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt:

Bị cáo Trịnh Thị Thuấn A 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 13/12/2022.

- Áp dụng khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 36 Bộ luật hình sự. Xử phạt:

Bị cáo Nguyễn Thị L 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ;

Bị cáo Phạm Ngọc Chi Kh 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ;

Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Ngoài ra, bản án còn xử lý vật chứng, tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 16/12/2022, bị cáo Trịnh Văn T kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xem xét toàn diện nội dung vụ án, tính chất, mức độ thiệt hại, bản thân bị cáo không phải là chủ mưu và xin hưởng án treo.

Trong giai đoạn cuẩn bị xét xử phúc thẩm, bị cáo thay đổi nội dung kháng cáo kêu oan.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không thắc mắc, khiếu nại nội dung bản án sơ thẩm, khai nhận hành vi như bản án sơ thẩm đã xét xử; đồng thời giữ nguyên nội dung kháng cáo xin hưởng án treo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày, thống nhất về tội danh mà bản án sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo nhưng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét do bị cáo bức xúc về việc đất của mình bị cưỡng chế không đúng không đúng nên mới phạm tội, hậu quả tội phạm chưa xảy ra, bị cáo xuất trình tình tiết giảm nhẹ mới theo điểm v khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự là thanh niên xung phong được Trung ương đoàn tặng kỷ niệm chương, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan tiến hành tố tụng tại giai đoạn sơ thẩm đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Đơn kháng cáo của bị cáo đúng về hình thức, nội dung, trong hạn luật định nên kháng cáo của bị cáo là hợp lệ, đủ cơ sở để Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi như bản án sơ thẩm quy kết. Xét lời khai nhận tội của bị cáo thống nhất với lời khai của các bị cáo và phù hợp với tất cả các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Ngày 12/5/2022 UBND xã Phúc Thọ, huyện Lâm Hà tổ chức, thực hiện quyết định số 80/QĐ-CCXP ngày 05/06/2018 về việc Cưỡng chế buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép trên thửa đất số 551, tờ bản đồ số 33 xã Phúc Thọ mà UBND tỉnh Lâm Đồng cấp cho Trường mẫu giáo Phúc Thọ vào năm 2002. Không đồng ý với quyết định của UBND xã Phúc Thọ các bị cáo Trịnh Văn T, Trịnh Công Th, Trịnh Thị Thuấn A, Nguyễn Thị L, Phạm Ngọc Chi Kh có hành vi dùng máy cắt cỏ, cưa máy, dao, xăng, trộn cát với ớt bột và ống nhựa PVC để chống lại đoàn cưỡng chế của Ủy ban nhân dân xã Phúc Thọ, Công an xã Phúc Thọ và Công an huyện Lâm Hà. Hành vi của các bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý đã xâm phạm trực tiếp đến hoạt động của Nhà nước về quản lý hành chính của những người đang thi hành công vụ được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến an ninh, chính trị và trật tự tại địa phương.

Toà án nhân dân huyện Lâm Hà đã tuyên xử bị cáo Trịnh Văn T phạm tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Xét kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Trịnh Văn T thì thấy rằng; Toà án nhân dân cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, để xử phạt bị cáo mức án khởi điểm của khung hình phạt là phù hợp. Tại phiên toà, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo, xuất trình tình tiết bị cáo là thanh niên xung phong được Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tặng kỷ niệm chương nhưng đây chỉ là tình tiết giảm nhẹ ở khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, Luật sư đề nghị áp dụng điểm v khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự là không có căn cứ; xét thấy bị cáo là chủ mưu của vụ án, các bị cáo khác là thành viên trong gia đình bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét tạo điều kiện cho những người này hưởng án treo và cải tạo không giam giữ là thể hiện tính khoan hồng của pháp luật. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước về quản lý hành chính và trong khi thi hành nhiệm vụ công gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự. Do vậy, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm đã xét xử như Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng đề nghị là phù hợp.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trịnh Văn T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tuyên bố bị cáo Trịnh Văn T phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.

Áp dụng khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trịnh Văn T 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/5/2022 đến ngày 20/7/2022 vào thời gian chấp hành án.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trịnh Văn T phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 65/2023/HS-PT về tội chống người thi hành công vụ

Số hiệu:65/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;