TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TRÀ VINH, TỈNH TRÀ VINH
BẢN ÁN 56/2021/HSST NGÀY 12/10/2021 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 12 tháng 10 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, số 169, Phạm Ngũ Lão, khóm 4, phường 1, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 48/2021/HSST, ngày 08 tháng 9 năm 2021 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Thanh T, sinh năm 1981; tên gọi khác: T xăm; nơi ĐKHKTT và chổ ở: số C, khóm D, phường Y, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông Nguyễn Thanh S, sinh năm 1942 và bà Lê Thị K, sinh năm 1945. Vợ Châu Thị H (đã ly hôn), con 01 người, Tiền án: không, tiền sự: 01 lần; bị bắt tạm giữ ngày 05/8/2021 sau đó chuyển sang tạm giam cho đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa;
2. Nguyễn Thanh B, sinh năm 1973; tên gọi khác: không; nơi ĐKHKTT và chổ ở: số C, khóm D, phường Y, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh; nghề nghiệp: thợ hồ; trình độ học vấn: 05/12; dân tộc: kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông Nguyễn Thanh S, sinh năm 1942 và bà Lê Thị K, sinh năm 1945; vợ Lê Thị H , sinh năm 1990; con 03 người lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2015. Tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt tạm giữ ngày 05/8/2021 sau đó chuyển sang tạm giam cho đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa;
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Ông Cao Thành Đ, sinh năm 1980 (vắng mặt) Địa chỉ: số X, khóm B, phường Y, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh;
- Nguyên đơn dân sự: Bệnh viện Đa khoa Trà Vinh Người đại diện theo pháp luật: ông Trần Kiến V – Giám đốc bệnh viện Đa khoa tỉnh Trà Vinh. Ông V ủy quyền cho ông Lê Văn D, sinh năm 1973 – đội trưởng đội bảo vệ. – theo văn bản ủy quyền ngày 30/8/2021 (vắng mặt)
- Người làm chứng:
1. Ông Thạch Sô Ph, sinh năm 1980 (vắng mặt), Địa chỉ: Khóm x, phường y, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh;
2. Ông Nguyễn Tài V (Tư G), sinh năm 1964 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp B, xã H, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh
3. Anh Nguyễn Phúc T, sinh năm 1989 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp B, xã H, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh
4. Anh Nguyễn Xuân B, sinh năm 1990 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp X, xã N, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh
5. Anh Lê Quí Đ, sinh năm 1988 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp G, xã H, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh
6. Anh Sơn Trang Khoa Th, sinh năm 1987 (vắng mặt) Địa chỉ: số Z, khóm A, phường X, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh
7. Ông Lâm Thạch Minh Anh H, sinh năm 1974 (vắng mặt) Địa chỉ: Số T, khóm 1, phường E, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.
8. Ông Phạm Ngọc Đ, sinh năm 1953 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp H, xã Đ, Châu Thành, tỉnh Trà Vinh
9. Ông Ngô Quốc H, sinh năm 1989 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp B, xã N, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh
10. Ông Diệp Phước T, sinh năm 1979 (vắng mặt) Địa chỉ: số C, khóm 9, phường C, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trước tình hình diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19, vào ngày 27/5/2021 Bệnh viện đa khoa t ỉ n h T r à V i n h có Công văn số: 134/CV-BVĐKTV đề nghị Công an thành phố Trà Vinh hỗ trợ lực lượng phối hợp cùng bệnh viện giữ gìn an ninh, trật tự trong công tác phòng chống dịch bệnh Covid – 19 tại khu vực bệnh viện. Trên cơ sở đó, Công an thành phố Trà Vinh có Công văn số 165/CATP-TH, ngày 27/5/2021 về việc phân công các đội và Công an phường Y, thành phố Trà Vinh hỗ trợ lực lượng đảm bảo an ninh trật tự tại khu vực bệnh viện. Ngày 05/8/2021 Công an phường Y có phân công đồng chí Cao Thành Đ – Cán bộ Công an phường Y làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự phòng chống dịch covid-19 trong bệnh viện đa khoa tỉnh Trà Vinh theo lịch công tác số 08/LCT, ngày 02 tháng 8 năm 2021.
Vào khoảng 15 giờ 00 phút ngày 05/8/2021, sau khi đã uống rượu bia tại nhà, Nguyễn Thanh T một mình điều khiển xe mô tô đến khu vực trước cổng bệnh viện Đa khoa tỉnh Trà Vinh thuộc khóm 7, phường 6, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh để mua thuốc hút. Nhìn thấy bên trong bệnh viện có phát gạo nên Nguyễn Thanh T đi vào bên trong nhằm mục đích xin gạo từ thiện. Thấy T đi vào, anh Thạch Sô Th là nhân viên bảo vệ đang trực tại chốt cổng bệnh viện hỏi T đi đâu định ngăn lại để kiểm tra thân nhiệt, sát khuẩn và yêu cầu bị cáo T xuất trình giấy xét nghiệm Covid -19 theo quy định. Do biết T là đối tượng càn quấy, nhiều lần đe dọa các nhân viên bảo vệ nên anh Sô Th không dám ngăn cản mà để T đi vào bên trong, sau khi vào bên trong T đến gặp ông Nguyễn Tài V (Tư G) để hỏi xin gạo từ thiện nhưng ông V trả lời không được, do gạo là của nhà hảo tâm làm từ thiện dùng để phát cho bệnh nhân nghèo đang điều trị tại bệnh viện. Sau khi nghe mình không thuộc đối tượng nhận gạo từ thiện, T đi đến đứng phía trước cổng ra vào bệnh viện chặn đầu xe cấp cứu không cho xe vào bên trong thì được ông V khuyên bảo nên T bỏ đi và đến gặp anh Nguyễn Phúc T để nói chuyện thì xảy ra mâu thuẩn, cự cải lớn tiếng, T dùng chân đạp ngã 01 biển báo hướng dẫn “Khu vực để xe ô tô”, lớn tiếng chửi tục, rồi tiếp tục xô ngã và dùng tay cầm biển báo hướng dẫn “Khu vực cấm đậu xe” ném ra xa, được anh T khuyên bảo nên bị cáo bỏ đi.
Một lúc sau, T quay lại đi vào trong bệnh viện, tiếp tục lớn tiếng chửi bới gây mất trật tự bên trong khuôn viên bệnh viện. Lúc này, quan sát thấy T đang chửi bới lớn tiếng bên trong bệnh viện, Nguyễn Thanh B là anh ruột của T đang ở phía trước cổng bệnh viện liền đi vào bên trong cầm theo 01 viên gạch ống trên tay nhằm mục đích đánh trả nếu có người đánh T, nhưng do không có ai đánh T nên B đã bỏ viên gạch xuống rồi đứng gần để quan sát.
Thấy T nhiều lần ra vào khu vực bệnh viện lớn tiếng chửi bới, đeo khẩu trang không đúng quy định (đeo khẩu trang nhưng không bịt miệng) và có hành động đập phá tài sản gây mất trật tự trong bệnh viện, nên đồng chí Cao Thành Đ – Cán bộ Công an phường Y, có mặc trang phục cảnh sát nhân dân đang làm nhiệm vụ tại đây đến giải thích nhắc nhỡ và yêu cầu bị cáo T đeo khẩu trang đúng cách và rời khỏi khu vực bệnh viện, T không chấp hành mà còn chửi bới, đe dọa dùng lời lẽ thô tục lăng mạ, xúc phạm đồng chí Đ, T dùng tay chỉ vào mặt đồng chí Đ nhiều lần đồng chí Đ đưa tay lên gạt đỡ tay của T ra nhưng T vẫn không chấp hành mà tiếp tục xúc phạm có hành vi dùng tay chỉ vào mặt và tấn công nên đồng chí Đ tiến hành khống chế thì T vùng vẫy, dùng tay đánh vào mặt đồng chí Đ. Ngay lúc này, B chạy đến dùng tay phải đánh nhiều cái vào phía sau lưng, vai đồng chí Đ nhằm ngăn cản không cho đồng chí Đ khống chế T. Do bị tấn công, đồng chí Đ lùi về phía sau để né tránh, thì B dùng 01 phần quà gồm chai nước tương và mì gói đựng trong bịch nylon ném vào người đồng chí Đ, chạy lại chổ để bảng hướng dẫn đậu xe gần đó cầm lấy 01 đoạn sắt hộp vuông chân của bản chỉ dẫn bị gẫy sẳn đuổi đánh và ném về phía đồng chí Đ nhưng đều không trúng. Được mọi người can ngăn, T và B bỏ ra ngoài. Khi ra đến cổng bệnh viện, T tiếp tục cầm một cái bình nhựa đựng nước sát khuẩn đập mạnh xuống đất làm vỡ bình nhựa. Sau khi vụ việc xảy ra, đồng chí Đ báo cáo về Công an phường Y kết hợp với Công an thành phố Trà Vinh tiến hành truy bắt T và B. Qua làm việc, T và B đều thừa nhận hành vi tấn công đồng chí Cao Thành Đ đang thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự, phòng chống dịch bệnh Covid tại bệnh viện đa khoa tỉnh Trà Vinh.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 107/TgT ngày 31/8/2021 của trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh Trà Vinh kết luận: tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của ông Cao Thành Đ là 0% (không phần trăm) cơ chế hình thành vết thương là do ngoại lực tác động trực tiếp, vật gây ra thương tích trên là vật tày cứng.
Tại bản Cáo trạng số 45/CT-VKSTPTV-HS ngày 06/9/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thanh T và Nguyễn Thanh B về tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với Nguyễn Thanh T và Nguyễn Thanh B và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh T và Nguyễn Thanh B phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.
Áp dụng khoản 1 Điều 330; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm d,h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 38 của Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T từ 2 năm 6 tháng đến 3 năm tù.
Áp dụng khoản 1 Điều 330; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm d khoản 1 Điều 52, Điều 17 Điều 38 của Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh B từ 1 năm 6 tháng đến 2 năm tù.
Về xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy - 01 (một) bảng chỉ dẫn kích thước 0,8 x 0,6 mét, có nền màu xanh, trên nền màu xanh có dòng chữ màu trắng ghi “Khu vực để xe ô tô và mũi trên hướng từ trái qua phải”.
- 01(một) bảng chỉ dẫn kích thước 0,8 x 0,6 mét có nền màu trắng, trên nền màu trắng có ghi dòng chữ màu đỏ “Khu vực cấm đậu xe”.
- 01 (một) chai nhựa đựng nước tương, loại có dung tích 415ml, trên thân chai có dòng chữ “Đầu bếp”, phần đáy chai đã bị bể.
- 01 (một) thanh kim loại dạng hộp vuông, kích thước 02 x 02 cm, thanh kim loại bị cong ở hai đầu, đoạn thẳng dài 39 cm, hai đầu cong được hàn gắn đoạn kim loại hộp vuông kích thước 0,2 x 02 cm, dài 11 cm.
- 01 (một) viên gạch ống loại có 04 lỗ dùng trong xây dựng, kích thước 17 x 07 cm, màu vàng đã qua sử dụng, trên viên gạch có bám nhiều rong rêu.
- 01 phần mãnh vở vỏ chai xịt khử khuẩn bằng nhựa màu đỏ, không rỏ hình dạng.
- 01 (một) khẩu trang y tế, kích thước 17 cm x 09 cm, một mặt màu xanh, một mặt màu trắng, trên khẩu trang có dòng chữ MMM. Trên mặt màu trắng có dính vết màu nâu đỏ kích thước 0,5 cm x 0,5 cm.
Trách nhiệm dân sự: Đồng chí Cao Thành Đạt có nhập viện điều trị, tuy nhiên chỉ chấn thương phần mềm, sau khi điều trị không để lại thương tích nên đồng chí Đ không yêu cầu các bị cáo bồi thường thiệt hại.
Đại diện Bệnh viện đa khoa tỉnh Trà Vinh ông Lê Văn D xác định tài sản thiệt hại không lớn, không yêu cầu các bị cáo bồi thường thiệt hại nên đề nghị không xem xét giải quyết.
Tại phiên tòa, quá trình tranh tụng các bị cáo Nguyễn Thanh T và Nguyễn Thanh B thống nhất với tội danh, điều luật áp dụng và mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng và không có ý kiến tranh luận gì về tội danh cũng như về hình phạt, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình.
Các bị cáo nói lời nói sau cùng:
- Bị cáo Nguyễn Thanh T mong HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Nguyễn Thanh B.
- Bị cáo Nguyễn Thanh B biết hành vi của mình là sai, bị cáo ăn năn hối cải, hoàn cảnh gia đình khó khăn, mong HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Ý kiến tranh luận và lời nói sau cùng của các bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Trà Vinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Tại phiên tòa hôm nay người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đồng chí Cao Thành Đ, ông Lê Văn D đại diện bệnh viện Đa khoa tỉnh Trà Vinh và người làm chứng ông Thạch Sô Th, Nguyễn Tài V, Nguyễn Xuân B, Nguyễn Phúc T, Lâm Thạch Minh Anh H, Sơn Trang Khoa Th, Lê Quí Đ, Ngô Quốc H, Diệp Phước T; Phạm Ngọc Đ đều vắng mặt nhưng đã có lời khai tại cơ quan điều tra do đó không làm ảnh hưởng đến vụ án, căn cứ Điều 192 Bộ luật tố tụng hình sự, đưa vụ án ra xét xử là có căn cứ đúng pháp luật.
[2] Xét thấy lời trình bày của Nguyễn Thanh T và Nguyễn Thanh B tại phiên tòa phù hợp với chứng cứ lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó có cơ sở để xác định. Vào khoảng 15 giờ 00 phút, ngày 05/8/2021, bị cáo Nguyễn Thanh T sau khi đã uống rượu bia tại nhà, bị cáo vào Bệnh viện Đa khoa Trà Vinh thuộc khóm 7, phường Y, thành phố Trà Vinh, bị cáo vô cớ kiếm chuyện gây mất trật tự trong bệnh viện. Được đồng chí Cao Thành Đ là cán bộ Công an phường Y, thành phố Trà Vinh đang thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự phòng, chống dịch bệnh Covid 19 trong bệnh viện đến nhắc nhở bị cáo T đeo khẩu trang cho đúng cách và yêu cầu rời khỏi khu vực bệnh viện bị cáo không chấp hành mà cùng với bị cáo Nguyễn Thanh B tấn công đánh lại đồng chí Đ. Trong quá trình thực hiện tội phạm các bị cáo T, B là người có đầy đủ năng lực hành vi, đã thực hiện hành vi lăng mạ, chửi bới, xúc phạm, dùng vũ lực tấn công, cản trở người thi hành công vụ thực hiện cộng vụ. Hành vi của Nguyễn Thanh T và Nguyễn Thanh B đã đủ yếu tố cấu thành tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 của Bộ luật hình sự như Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo:
Trước diễn biến phức tạp của tình hình dịch bệnh Covid-19, trong thời gian qua, nhân dân và chính quyền cả nước nói chung, thành phố Trà Vinh nói riêng đang tập trung nỗ lực và chung tay, bằng mọi biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn dịch bệnh Covid - 19. Trong khi mọi người dân đang cố gắng nâng cao tinh thần tự giác chấp hành quy định của pháp luật, khuyến cáo của các cơ quan Nhà nước để phòng, chống dịch bênh Covid-19 thì thì vẫn còn một số người “vô trách nhiệm”, thiếu ý thức, trốn cách ly y tế, khai báo y tế gian dối, nhập cảnh trái phép, chống người thi hành công vụ, gây khó khăn trong việc truy vết điều tra dịch tễ, kiểm soát dịch bệnh. Điển hình là trường hợp chống người thi hành công vụ ở chốt kiểm dịch tại Bệnh viện đa khoa Trà Vinh của các bị cáo Nguyễn Thanh T và Nguyễn Thanh B. C ác bị cáo nhận thức được sự nguy hiểm của dịch bệnh, nhưng không chấp hành quy định của Nhà nước về các biện pháp phòng, chống dịch bệnh cho chính bản thân mình và cho xã hội, các bị cáo không những không chấp hành kiểm dịch y tế khi qua chốt kiểm dịch không khai báo, không xuất trình giấy tờ, bị cáo T đeo khẩu trang không đúng cách mà còn có hành vi ngăn cản xe cấp cứu, đập phá tài sản của bệnh viện, chửi bới, đe đọa, có lời lẽ thô tục, lăng mạ xúc phạm, dùng vũ lực tấn công người đang thực thi công vụ .
Đây là vụ án có đồng phạm nhưng giữa các bị cáo không có sự cấu kết chặt chẽ, chỉ là hành vi tự phát, các bị cáo không có sự bàn bạc, phân công vai trò nên đây là đồng phạm giản đơn.
Các bị cáo là người trưởng thành, có đủ nhận thức về hành vi của mình, nhưng do xem thường pháp luật, không thực hiện nghiêm công tác phòng chống dịch, không thực hiện theo yêu cầu của những người có trách nhiệm thi hành công vụ. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã dùng vũ lực tấn công người đang thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự, ngăn ngừa và kiểm soát dịch bệnh tại bệnh viện, xâm phạm đến sức khỏe của người thi hành công vụ, hoạt động bình thường đúng đắn của cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ công, đặc biệt đối với công cuộc đấu tranh phòng, chống dịch bệnh trong giai đoạn hiện nay. Hành vi đó còn gây mất trật tự trong bệnh viện, gây ảnh hưởng đến sức khỏe, tâm lý của bệnh nhân đang điều trị bệnh và người dân xung quanh. Do đó phải xử lý nghiêm đối với các bị cáo.
Đối với bị cáo T xuất phát từ việc xin gạo từ thiện không được, do bản thân có uống rượu bia và có sử dụng chất ma túy trước đó đã không kìm chế được bản thân, cộng với bản chất ngang ngược, càn quấy, bất chấp sự ngăn cản của người khác, từ những nguyên cớ nhỏ nhặt cố tình gây sự, vô cớ đánh người thực thi công vụ, coi thường kỷ cương xã hội, bị cáo là đầu vụ nguyên nhân chính xuất phát cũng từ bị cáo . Cần xem đây là tình tiết tăng nặng đối với bị cáo.
Đối với bị cáo B, lẽ ra khi đến quan sát biết rõ nội dung sự việc, thấy được việc làm sai trái của em mình mà khuyên can, nhưng bị cáo không làm được việc đó mà bị cáo bất chấp đúng sai cùng với T tấn công đánh lại đồng chí Đ. Do vậy cần phải xử phạt các bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo để cải tạo, giáo dục cũng như răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.
[4] Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Thanh T có hành vi phạm tội mang tính chất côn đồ theo điểm d khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Nguyễn Thanh B không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo T, Bcó thái độ thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình do đó áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
[5] Nhân thân của các bị cáo: đối với bị cáo Nguyễn Thanh T năm 2003 bị Tòa án nhân dân thị xã Trà Vinh (nay là thành phố Trà Vinh) xử phạt 04 năm 6 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy và tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ” theo bản án số 10/HSST, ngày 07/03/2003 – năm 2010 bị Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh xử phạt 7 năm tù về tội “Cướp tài sản”theo bản án số 68/HSST, ngày 29/9/2010 đã được xóa án tích. 01 lần năm 2018 bị Công an phường 1 thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực “xúi giục người khác đánh nhau” theo Quyết định số: 31, ngày 27/11/2018 chưa thi hành. Bị cáo Nguyễn Thanh B 01 lần năm 1995 bị Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” đã được xóa án tích.
Qua đó cho thấy các bị cáo có nhân thân không được tốt, các bị cáo đã có thời gian được cải tạo, giáo dục nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân mà lại tiếp tục thực hiện tội phạm thể hiện bản chất và ý thức coi thường pháp luật. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng mức án nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, tương xứng với mức độ và hành vi phạm tội của từng bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự:
Ông Cao Thành Đ chỉ chấn thương phần mềm, sau khi điều trị không để lại thương tích nên đồng chí Đ không yêu cầu các bị cáo bồi thường thiệt hại, nên không xem xét giải quyết.
Đại diện Bệnh viên đa khoa tỉnh Trà Vinh ông Lê Văn D xác định tài sản thiệt hại không lớn, không yêu cầu các bị cáo bồi thường thiệt hại về tài sản, nên không xem xét giải quyết.
[7] Về xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy - 01 (một) bảng chỉ dẫn kích thước 0,8 x 0,6 mét, có nền màu xanh, trên nền màu xanh có dòng chữ màu trắng ghi “Khu vực để xe ô tô và mũi trên hướng từ trái qua phải”.
- 01(một) bảng chỉ dẫn kích thước 0,8 x 0,6 mét có nền màu trắng, trên nền màu trắng có ghi dòng chữ màu đỏ “Khu vực cấm đậu xe”.
- 01 (một) chai đựng nước tương, loại có dung tích 415ml, trên thân chai có dòng chữ “Đầu bếp”, phần đáy chai đã bị bể.
- 01 (một) thanh kim loại dạng hộp vuông, kích thước 02 x 02 cm, thanh kim loại bị cong ở hai đầu, đoạn thẳng dài 39 cm, hai đầu cong được hàn gắn đoạn kim loại hộp vuông kích thước 0,2 x 02 cm, dài 11 cm.
- 01 (một) viên gạch ống loại có 04 lỗ dùng trong xây dựng, kích thước 17 x 07 cm, màu vàng đã qua sử dụng, trên viên gạch có bám nhiều rong rêu.
- 01 phần mãnh vỡ võ chai xịt khử khuẩn bằng nhựa màu đỏ, không rỏ hình dạng.
- 01 (một) khẩu trang y tế, kích thước 17 cm x 09 cm, một mặt màu xanh, một mặt màu trắng, trên khẩu trang có dòng chữ MMM. Trên mặt màu trắng có dính vết màu nâu đỏ kích thước 0,5 cm x 0,5 cm.
[8] Xét thấy cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh truy tố bị cáo Nguyễn Thanh T, Nguyễn Thanh B theo khoản 1 Điều 330 của Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng pháp luật, về mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố đề nghị là phù hợp với tính chất và hành vi của từng bị cáo.
[9] Án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thanh T và Nguyễn Thanh B phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.
Căn cứ khoản 1 Điều 330, điểm s, khoản 1 Điều 51, điểm d khoản 1 Điều 52 , Điều 17, Điều 38 Bộ luật hình sự;
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh T 02 (Hai) năm 6 (sáu) tháng tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05-8-2021.
Căn cứ khoản 1 Điều 330, điểm s, khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 38 Bộ luật hình sự;
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh B 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05-8-2021.
2. Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy:
- 01 (một) bảng chỉ dẫn kích thước 0,8 x 0,6 mét, có nền màu xanh, trên nền màu xanh có dòng chữ màu trắng ghi “Khu vực để xe ô tô và mũi trên hướng từ trái qua phải”.
- 01(một) bảng chỉ dẫn kích thước 0,8 x 0,6 mét có nền màu trắng, trên nền màu trắng có ghi dòng chữ màu đỏ “Khu vực cấm đậu xe”.
- 01 (một) chai đựng nước tương, loại có dung tích 415ml, trên thân chai có dòng chữ “Đầu bếp”, phần đáy chai đã bị bể.
- 01 (một) thanh kim loại dạng hộp vuông, kích thước 02 x 02 cm, thanh kim loại bị cong ở hai đầu, đoạn thẳng dài 39 cm, hai đầu cong được hàn gắn đoạn kim loại hộp vuông kích thước 0,2 x 02 cm, dài 11 cm.
- 01 (một) viên gạch ống loại có 04 lỗ dùng trong xây dựng, kích thước 17 x 07 cm, màu vàng đã qua sử dụng, trên viên gạch có bám nhiều rong rêu.
- 01 phần mảnh vỡ vỏ chai xịt khử khuẩn bằng nhựa màu đỏ, không rỏ hình dạng.
- 01 (một) khẩu trang y tế, kích thước 17 cm x 09 cm, một mặt màu xanh, một mặt màu trắng, trên khẩu trang có dòng chữ MMM. Trên mặt màu trắng có dính vết màu nâu đỏ kích thước 0,5 cm x 0,5 cm.
3. Về trách nhiệm dân sự: Ông Cao Thành Đ và Bệnh Viện Đa khoa tỉnh Trà Vinh không yêu cầu các bị cáo bồi thường thiệt hại, nên không xem xét giải quyết.
4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội;
Bị cáo Nguyễn Thanh T và Nguyễn Thanh B mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về thời hạn kháng cáo: Án sơ thẩm xét xử công khai, các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc niêm yết bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7,7a,7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự năm; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 56/2021/HSST
Số hiệu: | 56/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Trà Vinh - Trà Vinh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/10/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về