TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NINH HẢI, TỈNH NINH THUẬN
BẢN ÁN 01/2024/HS-ST NGÀY 15/01/2024 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 15 tháng 01 năm 2024, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh T, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 56/2023/HSST ngày 29 tháng 12 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2024/QĐXXST – HS ngày 03/01/2024, đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn N, sinh năm 1979, tại H. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: khu phố F, thị trấn P, huyện N, tỉnh T; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 06/12; Họ tên cha: Nguyễn Văn T, sinh năm 1956. Họ tên mẹ: Nguyễn Thị L, sinh năm 1958. Vợ: Bùi Thị Hải Y, sinh năm 1983 (đã ly hôn) và 02 con. Tiền sự: Không; Tiền án: không. Bị bắt tạm giữ từ ngày 17/11/2023. Hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện N (có mặt).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Ngọc T1 – sinh năm 1991 (vắng mặt, có đơn xét xử vắng mặt).
Địa chỉ: Khu phố K - TT. K - N - T.
* Nguyên đơn dân sự:
Công an huyện N, người đại diện, thiếu tá Trương Ngọc M, Đội trưởng đội cảnh sát giao thông - trật tự Công An huyện N, tỉnh T (vắng mặt, có đơn xét xử vắng mặt).
* Những người làm chứng:
1.Ông Nguyễn Văn Q – sinh năm: 1996 (vắng mặt, có đơn xét xử vắng mặt).
Địa chỉ: Khu phố K - TT. K - N - T.
2.Ông Lê Mai Đức T2 – sinh năm 1990 (vắng mặt, có đơn xét xử vắng mặt). Địa chỉ: khu phố G - phường B - TP . - tỉnh T.
3.Ông Nguyễn Văn V – sinh năm: 2004 (vắng mặt). Địa chỉ: Khu phố N - TT. K - N - T.
4.Ông Trương Quang N1 – sinh năm 1993 (có mặt). Địa chỉ: P - P - N - T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Thực hiện Quyết định số: 52/KH – CSGT ngày 13/11/2023 của Công an huyện N, tổ tuần tra kiểm soát giao thông Công an huyện N (gọi tắt là Tổ tuần tra) gồm các đồng chí: Nguyễn Anh K, Lê Mai Đức T2, Nguyễn Ngọc T1, Nguyễn Văn Q tiến hành tuần tra, kiểm soát cơ động, đo nồng độ cồn trên các tuyến đường nội thị trấn K, tỉnh lộ 702, 702A, 704 nối dài, đường T, Sư Vạn H, Y, An Dương V1 … và xử lý người điều kiển xe ô tô, mô tô vi phạm hành chính về trật tự an toàn giao thông, vi phạm nồng độ cồn, tải trọng và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Khoảng 22 giờ 15 phút, ngày 17/11/2023 khi đi tuần tra trên tuyến đường Y đoạn đối diện sân vận động thị trấn K, tổ tuần tra phát hiện Nguyễn Văn N điều khiển xe mô tô biển số 85D1 – xxxxx hướng từ xã T về Thành phố P T đi tới nên anh Nguyễn Văn T3 ra hiệu lệnh dừng xe để kiểm tra. Do không có giấy phép lái xe mô tô, đã uống bia và sợ bị phạt nên N không dừng lại theo hiệu lệnh mà tiếp tục điều khiển xe mô tô bỏ chạy về hướng Thành phố P T thì anh T3 điều khiển xe mô tô đuổi theo phía sau đến trước Ngân hàng A mới chặn được N lại. Anh T3 cầm theo máy đo nồng độ cồn đến yêu cầu Ngọc thổi nhưng N không chấp hành. N chửi anh T3 và dùng tay hất, đẩy tay anh T3 đang cầm máy đo nồng độ cồn ra không chịu thổi vào máy đo nồng độ cồn. Anh T3 tiếp tục yêu cầu N chấp hành thì N dùng nón bảo hiểm đang đội trên đầu đập vào máy đo nồng độ cồn làm máy đo nồng độ cồn rơi lọt vào trong nón bảo hiểm. N tiếp tục lấy máy đo nồng độ ném xuống lề đường làm máy đo nồng độ cồn bị bể nhiều mảnh. Lúc này, anh T3 ôm N quật ngã xuống lề đường để khống chế N lại. N tiếp tục vùng vẫy rồi cắn vào đùi trái của anh T3 để thoát ra thì bị lực lượng Công an và người dân khống chế bắt giữ lại.
Quá trình điều tra, Nguyễn Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tại kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người số: 45/KL – TTCT – TTGĐYK – PY ngày 06/12/2023 của Trung tâm giám định y khoa - pháp y tỉnh N, kết luận: Vết thương ngang mặt ngoài 1/3 trên đùi trái sẹo liền tốt phẳng kích thước (3,5 x 3,5)cm. Vận động đùi trái bình thường, đi lại bình thường. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của anh Nguyễn Ngọc T1 là 02%.
Tại kết luận định giá tài sản số 20/KL – HĐDG ngày 05/12/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện N, kết luận: Máy đo nồng độ cồn có giá trị 8.646.000 đồng, bị bể nhiều mảnh không thể sử dụng được.
Tại bản Cáo trạng số: 02/CT-VKS ngày 28 tháng 12 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh T đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn N về tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Chống người thi hành công vụ”, do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ khoản 1 Điều 330; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Chống người thi hành công vụ” và đề nghị xử phạt bị cáo với mức án từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù.
Lời nói sau cùng: Tại phiên tòa, bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Tại phiên tòa, vắng mặt nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những người làm chứng nêu trên, mặc dù Tòa án đã tống đạt giấy triệu tập hợp lệ. Hội đồng xét xử xét thấy vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử và lời khai của họ đã có trong hồ sơ, nên căn cứ Điều 191, Điều 192 và Điều 199 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những người nêu trên.
[2]. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn N đã thực hiện hành vi phạm tội như sau: Khoảng 22 giờ 15 phút, ngày 17/11/2023, khi tổ tuần tra Công an huyện N kiểm tra nồng độ tại tuyến đường Y thuộc thị trấn K. Bị cáo đã có hành vi không chấp hành mà con chửi, đập hỏng máy đo nồng độ cồn trị giá 8.646.000 đồng và cắn anh Nguyễn Ngọc T1 là thành viên Tổ tuần tra gây thương tích với tỷ lệ thương tật 02% nhằm cản trở Tổ tuần tra thi hành công vụ.
[3]. Xét thấy hành vi nêu trên của bị cáo đã xâm phạm đến hoạt động bình thường, đúng đắn của các cơ quan quản lý Nhà nước, của cán bộ, công chức, những người được giao nhiệm vụ, công vụ và đồng thời gây mất trật tự trị an tại địa phương nên Viện kiểm sát truy tố bị cáo Nguyễn Văn N về tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Vì vậy phải xử phạt bị cáo một mức án thật nghiêm mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung, cách ly bị cáo với xã hội một thời gian, nhằm cải tạo, giáo dục, răn đe bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tác động gia đình bị cáo đã bồi thường cho Công an huyện N số tiền 8.646.000 đồng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
[5]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
[6]. Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt và chưa có tiền án, tiền sự.
[7]. Về trách hiệm dân sự: Anh Nguyễn Ngọc T1 không yêu cầu bị cáo Nguyễn Văn N bồi thường thiệt hại, nên không xem xét. Bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho Công an huyện N số tiền 8.646.000 đồng giá trị máy đo nồng độ cồn bị hỏng. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xét.
[8]. Về xử lý vật chứng: Xe mô tô biển số 85D1 – xxxxx không liên quan đến tội phạm nên Cơ quan điều tra không xử lý là đúng pháp luật. 01 (Một) mũ bảo hiểm và 01 (một) máy đo nồng độ cồn không còn giá trị sử dụng nên Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N đề nghị tịch thu tiêu hủy là phù hợp với quy định tại Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[9]. Về án phí: Bị cáo là người bị kết án, nên bị cáo phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 330; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.
2. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.
3. Mức hình phạt:
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 09 (chín) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giạm ngày 17/11/2023.
4. Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự và Điều 47 của Bộ luật Hình sự.
Tịch thu tiêu hủy:
-01 (Một) mũ bảo hiểm màu xanh ngọc, loại trùm kín đầu, kích thước (21 x 19 x 27)cm, hiệu Helmet, có kính chắn gió trong suốt, đã sử dụng, đã niêm phong.
- 01 (Một) máy đo nồng độ cồn trong hơi thở Prodigy 2, hãng sản xuất: AndaTech, xuất sứ: Australia, số seri: SN 851997, bị bể nhiều mảnh, đã niêm phong.
(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng tài sản ngày 05/01/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N giữa Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N).
- Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội 14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Nguyễn Văn N phải chịu 200.000 đồng (Bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 15/01/2024). Nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 01/2024/HS-ST về tội chống người thi hành công vụ
Số hiệu: | 01/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ninh Hải - Ninh Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/01/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về