TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 41/2021/HSST NGÀY 09/12/2021 VỀ TỘI CHIẾM GIỮ TRÁI PHÉP TÀI SẢN
Ngày 09 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 41/2021/TLST- HS ngày 12.11.2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2021/QĐXXST-HS ngày 29/11/2021 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: HUỲNH GIA K; Giới tính: Nam, sinh ngày 29.9.2002 tại TP. Q; Nơi cư trú: Số 169/16/1 đường N, phường P, TP. Q, tỉnh B; Nơi ở hiện tại: Số 21 đường C, phường T, TP. Q, tỉnh B; Nghề nghiệp: Sinh viên; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Con ông: Huỳnh Quốc D, sinh năm 1970 và bà: Lê Thị Thu H1, sinh năm 1969; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không. Hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 23.8.2021 cho tới nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: HỒ NGUYỄN QUANG H; Giới tính: Nam, sinh ngày 24.3.2002 tại TP. Quy Nhơn; Nơi cư trú: Số 16/1 đường T1, phường K, TP. Q, tỉnh B; Nghề nghiệp: Sinh viên; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Hồ Tuấn D1, sinh năm 1974 và bà: Nguyễn Thị K1, sinh năm 1975; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.
Hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 23.8.2021 cho tới nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại:
Anh Lê Diệp Đ, sinh năm 2002; Trú tại: Số 28/1A đường N, phường Đ1, thành phố Q, tỉnh B. (Vắng mặt, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).
- Những người tham gia tố tụng khác:
Chị Nguyễn Bảo P, anh Nguyễn Ngọc Q1.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 10/6/2021, sau khi Huỳnh Gia K, Hồ Nguyễn Quang H cùng Lê Diệp Đ, Nguyễn Bảo P, Nguyễn Ngọc Q1 uống cà phê tại quán H30 ở 114 đường Đô Đốc Bảo, phường Trần Phú, TP Quy Nhơn xong thì cả nhóm ra về. Khi đứng dậy ra về thì Đ đánh rơi 01 ví tiền ở trên ghế Đ ngồi, bên trong ví tiền có 13.700.000 đồng và 01 thẻ ATM ngân hàng Vietcombank mang tên Lê Diệp Đ. K cũng đứng dậy đi ra nhưng đánh rơi bật lửa nên quay lại lấy thì phát hiện ví tiền của Đ ở trên ghế và bật lửa của K rơi gần đó. K biết ví tiền này là của Đ nên nhặt ví tiền và bật lửa bỏ vào túi áo khoác của mình rồi đi ra điều khiển xe mô tô đi cùng H và Q1 về nhà Q1. Sau đó, K và H điều khiển xe đến công viên trước Trường tiểu học Hải Cảng, TP.Quy Nhơn thì dừng lại, hiêm kể cho H nghe về việc nhặt được ví tiền của Đ rồi rủ H cùng nhau chia tiền này, H đồng ý. K đưa cho H số tiền 4.600.000 đồng và giữ lại 9.100.000 đồng. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, Đ phát hiện bị rơi ví tiền nên gọi cả nhóm quay lại quán. Tại đây, Đ hỏi K và H có lấy ví tiền của Đ không nhưng K và H đều không thừa nhận. Sáng ngày 11/6/2021, nhóm Đ đến nhà K thì gặp K ở đường X, TP. Q, Đ nói với K mình đã nhìn thấy trong camera là K có quay lại chỗ Đ ngồi và hỏi K “có nhặt ví thì trả lại cho tôi” nhưng K vẫn không thừa nhận. Sau đó, Đ trình báo Công an phường Trần Phú.
Trong quá trình điều tra, Huỳnh Gia K, Hồ Nguyễn Quang H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Ngày 11/10/2021, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự TP. Quy Nhơn kết luận: 01 ví da màu đen, có hình chữ “V” bằng kim loại, kích thước: (11x9) cm, trị giá: 20.000 đồng.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP. Quy Nhơn đã tạm giữ và trả lại 01 ví tiền màu đen, 01 thẻ ATM ngân hàng Vietcombank mang tên Lê Diệp Đ và số tiền 12.600.000 đồng cho Lê Diệp Đ.
Về phần dân sự: Huỳnh Gia K và Hồ Nguyễn Gia H đã bồi thường số tiền 1.100.000 đồng cho Lê Diệp Đ, Đ không yêu cầu bồi thường gì thêm.
- Tại bản cáo trạng số 200/CT-VKSQN ngày 10.11.2021 Viện kiểm sát nhân dân TP. Quy Nhơn truy tố bị cáo Huỳnh Gia K và Hồ Nguyễn Quang H về tội “Chiếm giữ trái phép tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 176 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 10/6/2021, tại quán cà phê H30 ở 114 Đô Đốc Bảo, phường Trần Phú, thành phố Quy Nhơn, Huỳnh Gia K có hành vi nhặt ví tiền trị giá 20.000 đồng bên trong có 13.700.000 đồng của Lê Diệp Đ. K và Hồ Nguyễn Quang H biết ví tiền trên là của Đ nhưng không trả lại ví tiền cho Đ mà cùng chiếm giữ và chia nhau số tiền trên, H lấy 4.600.000 đồng, K lấy 9.100.000 đồng. Khi Đ yêu cầu K và H trả ví tiền cho Đ thì K và H đều không thừa nhận đã nhặt ví tiền của Đ. Hành vi của các bị can là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác nên cần xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1 Điều 176, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Huỳnh Gia K từ 06-09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, có ấn định thời gian thử thách theo quy định.
Áp dụng khoản 1 Điều 176, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hồ Nguyễn Quang H từ 03-06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, có ấn định thời gian thử thách theo quy định Về bồi thường thiệt hại: Huỳnh Gia K và Hồ Nguyễn Gia H đã bồi thường số tiền 1.100.000 đồng cho Lê Diệp Đ, Đ không yêu cầu bồi thường gì thêm.
Các bị cáo tự bào chữa: Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, không bào chữa.
Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Quy Nhơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Huỳnh Gia K và Hồ Nguyễn Quang H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với những người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định: Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 10/6/2021, tại quán cà phê H30 ở số 114 Đô Đốc Bảo, phường Trần Phú, thành phố Quy Nhơn, Huỳnh Gia K có nhặt được một ví da trị giá 20.000 đồng, bên trong có chứa số tiền 13.700.000 đồng. Mặc dù xác định được chiếc ví da này là của bạn mình, tuy nhiên Huỳnh Gia K đã có hành vi cố ý chiếm giữ chiếc ví da cùng số tiền nêu trên. Huỳnh Gia K đã thông báo cho Hồ Nguyễn Quang H biết nguồn gốc số tài sản mà mình vừa nhặt được nhưng cả hai đều thống nhất không trả cho anh Lê Diệp Đ mà cùng chia nhau số tiền nói trên, cụ thể: H lấy 4.600.000 đồng, K lấy 9.100.000 đồng. Sau khi phát hiện ra mình bị mất chiếc ví, anh Lê Diệp Đ có tìm kiếm và xác định Huỳnh Gia K đã lấy tài sản của mình, anh đã nhiều lần yêu cầu K trả lại tài sản nhưng K và H không thừa nhận hành vi của mình. Hành vi của các bị cáo Huỳnh Gia K và Hồ Nguyễn Quang H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Chiếm giữ trái phép tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 176 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn đã truy tố.
[3] Các bị cáo bị cáo Huỳnh Gia K và Hồ Nguyễn Quang H có đầy đủ nhận thức và năng lực điều khiển hành vi nên phải biết tài sản của người khác để quên là không thuộc quyền sở hữu, quản lý của mình nhưng vì tham lam, ý thức xem thường pháp luật, muốn chiếm giữ tài sản của người khác làm của riêng, nên các bị cáo đã có hành vi chiếm giữ trái phép tài sản của anh Lê Diệp Đ. Hành vi do các bị cáo Huỳnh Gia K và Hồ Nguyễn Quang H gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, trị an ở địa phương. Các bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, tội phạm đã hoàn thành nên cần xử phạt nghiêm mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.
[4] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo thì thấy rằng: Các bị cáo có nhân thân tốt, trước đây chưa vi phạm gì. Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai báo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường thiệt hại, đồng thời bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
[5] Vụ án thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn vì giữa các bị cáo không có sự bàn bạc trước mà mang tính chất bộc phát nhất thời. Xét vai trò của từng bị cáo thì thấy rằng: Trong vụ án, bị cáo Huỳnh Gia K tham gia với vai trò chính, là người trực tiếp nhặt được tài sản, hình thành ý thức chiếm giữ tài sản của người khác, rủ rê, lôi kéo người khác cùng phạm tội. Bị cáo K liên tục phủ nhận hành vi của mình mặc dù bị hại đã nhiều lần hỏi. Bị cáo Hồ Nguyễn Quang H cùng thống nhất chiếm giữ số tiền và cùng K che giấu hành vi phạm tội của K.
Do vậy, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội của từng bị cáo mà tuyên phạt mức án phù hợp, có lý, có tình.
Các bị cáo Huỳnh Gia K và Hồ Nguyễn Quang H có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, nhân thân tốt, trong suốt quá trình tại ngoại, bị cáo K và H chấp hành tốt các yêu cầu của cơ quan tố tụng, thể hiện việc các bị cáo có khả năng tự cải tạo bản thân, đồng thời cả hai đều là sinh viên đang đi học nên Hội đồng xét xử xét thấy cần tạo điều kiện cho các bị các cơ hội sửa sai, tu dưỡng rèn luyện đạo đức, không cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội mà áp dụng hình phạt tù có điều kiện, giao các bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát giáo dục cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục đối với từng bị cáo.
[6] Về bồi thường thiệt hại: Anh Lê Diệp Đ đã nhận lại chiếc ví da, số tiền 12.600.000 đồng và Huỳnh Gia K và Hồ Nguyễn Gia H đã bồi thường số tiền 1.100.000 đồng, anh Đ không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về án phí: Các bị cáo bị kết án về tội: “Chiếm giữ trái phép tài sản” nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Gia K và Hồ Nguyễn Quang H phạm tội: “Chiếm giữ trái phép tài sản”.
1. Áp dụng khoản 1 Điều 176, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Huỳnh Gia K 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 09.12.2021).
Giao bị cáo Huỳnh Gia K cho UBND phường T, thành phố Q, tỉnh B giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo có thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Áp dụng khoản 1 Điều 176, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hồ Nguyễn Quang H 03 (ba) tháng tù nhưng cho hưởng treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 09.12.2021).
Giao bị cáo Hồ Nguyễn Quang H cho UBND phường Lý Thường K, thành phố Q, tỉnh B giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo có thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Buộc các bị cáo Huỳnh Gia K và Hồ Nguyễn Quang H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.
Bản án về tội chiếm giữ trái phép tài sản số 41/2021/HSST
Số hiệu: | 41/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/12/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về