Bản án về tội buôn lậu số 119/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHONG THỔ, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 119/2024/HS-ST NGÀY 18/09/2024 VỀ TỘI BUÔN LẬU

Ngày 18 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phong Thổ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 101/2024/TLST-HS ngày 02 tháng 8 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 99/2024/QĐXXST-HS ngày 15/8/2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phồng Mý Lai; giới tính: Nữ; sinh năm 1991; Nơi sinh: huyện S, tỉnh Lai Châu; Nơi cư trú: Khu A, thị trấn S, huyện S, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Dao; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 2/12; Con ông Chẻo A P, sinh năm 1966 và con bà Phồng Mý L, sinh năm 1966; Gia đình có 06 chị em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Chồng: Triệu Chính Đ, sinh năm 1993; Con có 02 con: con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 16/5/2024 tại thị trấn S, huyện S, tỉnh Lai Châu cho đến nay. Có mặt.

* Người làm chứng:

1. Anh Triệu Chính Đ, sinh năm 1993; địa chỉ: Khu A, thị trấn S, huyện S, tỉnh Lai Châu. Hiện đang chấp hành án tại Nhà tạm giữ Công an huyện P, tỉnh Lai Châu. Vắng mặt.

2. Anh Châu Xeo X, sinh năm 2002; địa chỉ: bản D, thị trấn S, huyện S, tỉnh Lai Châu. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 01/10/2023, Phồng Mý L1, sinh ngày 11/3/1991 đang ở cùng chồng là Triệu Chính Đ, sinh ngày 28/6/1993 tại phòng trọ thuộc phường Đ, thành phố L, tỉnh Lai Châu, L1 thấy có người chuyển số tiền 5.000.000 đồng vào tài khoản 362074xxxx của L1 tại Ngân hàng TMCP Đ1. Lai hỏi Đ tiền của ai thì Đ trả lời: đây là tiền của khách đặt cọc mua cây sâm. Trước đó, ngày 30/9/2023 Đ và Châu Xeo X, sinh ngày 01/10/2002, trú tại bản Dao, thị trấn S, huyện S, tỉnh Lai Châu có trao đổi, thỏa thuận về việc: Đ mua sâm bên Trung Quốc về bán cho X, giá là 450.000 đồng/kg; số tiền 5.000.000 đồng là tiền của X chuyển khoản. Khoảng 20 phút sau, Đ bảo L1 gọi điện sang Trung Quốc xem có tìm được người bán sâm không, L1 gọi điện thoại cho một người đàn ông Trung Quốc không rõ lai lịch, người đàn ông đó nói có sâm bán và thống nhất giao hàng vào buổi tối tại cửa khẩu M1 thuộc xã M, huyện P, tỉnh Lai Châu. Khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, L1 và Đ đi xe mô tô biển kiểm soát 25B1-652.96 xuống khu vực cửa khẩu M1. Trên đường đi, L1 gọi điện thoại thuê Phông Chẩn T, sinh ngày 16/4/1994, trú tại bản Nhiều Sáng, xã L, huyện S thuê vận chuyển sâm qua biên giới với giá 500.000 đồng/lần, T đồng ý; Đ cũng gọi điện thoại cho em trai là Triệu Chính T1, sinh ngày 07/11/2001, trú tại khu A, thị trấn S, huyện S rủ đi vận chuyển hàng hóa cùng nhưng không nói là vận chuyển sâm qua biên giới, T1 đồng ý.

Khoảng 17 giờ cùng ngày, khi đi đến ngã ba P, thị trấn P, huyện P, L và Đ gặp T, T1, 04 người tiếp tục đi đến nhà Lê Thị Phương T2, sinh năm 1978, tại bản P, xã M, huyện P ngủ nhờ để chờ người đàn ông Trung Quốc gọi điện. Khoảng 16 giờ ngày 02/10/2023, do không thấy người đàn ông Trung Quốc liên lạc lại, L1 bảo T và T1 đi về, còn L1 và Đ xuất cảnh sang Trung Quốc qua cửa khẩu M1. Trước khi xuất cảnh, Đ vào một cửa hàng đổi số tiền 38.000.000 đồng (trong đó có 5.000.000 đồng là tiền của Châu Xeo X, 33.000.000 đồng là tiền của vợ chồng L1 và Đ) lấy 11.000 Nhân dân tệ Trung Quốc. Trong các ngày 03,04/10/2023, L1 và Đ ăn ngủ tại nhà một người quen ở huyện K, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Khoảng 08 giờ ngày 04/10/2023, L1 và Đ gặp và mua của một người đàn ông Trung Quốc gần 200kg sâm (đựng trong 06 thùng bia các tông) giá 11.000 Nhân dân tệ. Sau đó, L1 và Đ vận chuyển sâm đến gần mốc 63 thuộc bản Chang Hồng 1, xã H, huyện P, đồng thời Đ gọi điện cho T đến địa điểm nhận hàng. Lai và Đ chuyển sâm qua hàng rào biên giới Trung Quốc, T nhận hàng rồi vác qua suối về Việt Nam. Khoảng 16 giờ cùng ngày, sau khi chuyển hết số sâm về Việt Nam, L1 và Đ nhập cảnh qua cửa khẩu M1. Đ và X tiếp tục đi đến chỗ T đợi và chia nhau vác 09 bao tải sâm. Hồi 17 giờ 20 phút ngày 04/10/2023, tại khu vực mốc 63 thuộc bản C, xã H, huyện P, T, Châu Xeo X, Phồng Chẳn T bị Đồn Biên phòng H, Bộ đội Biên phòng tỉnh L phát hiện, bắt quả tang thu giữ 09 bao tải cây, củ sâm.

Sau khi nhập cảnh về Việt Nam, Phồng Mý L1 đi xe ô tô khách lên thành phố L, tỉnh Lai Châu. Do không biết chồng mình là Triệu Chính Đ bị bắt, L1 đã đi khỏi địa phương làm ăn. Đến ngày 16/5/2024, Phồng M Lai ra trình diện Công an huyện P và khai báo về hành vi phạm tội của mình.

Ngày 05/10/2023 Đồn biên phòng H thành lập hội đồng mở niêm phong, xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định, kết quả: 05 bao tải chứa củ nghi là sâm có tổng trọng lượng: 106,25 kg; 03 bao lá, thân cây nghi là sâm có tổng trọng lượng 40 kg; 01 bao củ, thân, lá cây nghi cây sâm có trọng lượng: 13,5 kg.

Tại Bản kết luận giám định số 617/CNR-VP ngày 06/10/2023 của Viện nghiên cứu công nghiệp rừng - V kết luận: số thực vật gửi giám định là Sâm lai châu. Tên khoa học: P2. Fuscidiscus Komatsu, S.Zhu & S.Q.Cai. Sâm lai châu (P2. Fuscidiscus) là loài cây thân củ thuộc chi S (P), họ Ngũ Gia B (A). Sâm lai châu (P2. Fuscidiscus) được xếp nhóm IIA trong “Danh mục thực vật, động vật rừng nguy cấp, quý hiếm” ban hành kèm theo Nghị định số 84/2021/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2021 của Chính phủ.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 31 ngày 06/10/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện P kết luận: 106,25 kg củ sâm Lai Châu có trọng lượng từ 10-12 củ/kg có giá trị tại thời điểm ngày 04/10/2023 là 223.125.000 đồng. 40 kg lá sâm có giá trị có giá trị tại thời điểm ngày 04/10/2023 là 22.666.000 đồng. 13,5 kg củ, thân, lá cây sâm có giá trị có giá trị tại thời điểm ngày 04/10/2023 là 40.500.000 đồng. Tổng số củ, thân, lá sâm lai châu xuất xứ từ Trung Quốc giá trị có giá trị tại thời điểm ngày 04/10/2023 là: 286.291.000 đồng.

Bản cáo trạng số 55/CT-VKSPT ngày 02/8/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ đã truy tố bị cáo P1 Mý Lai về tội “Buôn lậu” theo quy định tại khoản 1 Điều 188 Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về bản kết luận điều tra số 51/KLĐT ngày 16/7/2024 của Cơ quan CSĐT Công an huyện P và bản Cáo trạng nêu trên.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 188; điểm i, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 60 đến 90 triệu đồng về tội “Buôn lậu”; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng, không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ.

Tại lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt, do hiện nay chồng bị cáo đang đi chấp hành án, hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, bị cáo một mình nuôi 02 con ăn học.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với nội dung vụ án, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thu thập hợp pháp. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định: sáng ngày 04/10/2024, bị cáo Phồng Mý L1 và Triệu Chính Đ đã cùng nhau mua 159,75 kg bao gồm cả củ, rễ, thân, lá Sâm L có tổng trị giá 286.291.000 đồng tại huyện K, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, mục đích để đưa trái phép về Việt Nam bán cho Châu X1 Xú để kiếm lời. Hồi 17 giờ 20 phút ngày 04/10/2023, khi Triệu Chính Đ, C, Phồng Chẳn T đang vận chuyển trái phép số cây sâm trên qua biên giới tại khu vực mốc 63 thuộc bản Chang Hồng 1, xã H, huyện P thì bị Đồn Biên phòng H, Bộ đội Biên phòng tỉnh L phát hiện, bắt quả tang. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Buôn lậu” theo quy định tại khoản 1 Điều 188 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, quan điểm đề nghị về tội danh, mức hình phạt đối với bị cáo của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn có cơ sở, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo nhận thức được việc đưa hàng hóa không được phép của nhà nước qua biên giới là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước về xuất khẩu, nhập khẩu và làm ảnh hưởng tới trật tự, trị an, an toàn xã hội tại địa phương. Vì vậy, cần thiết phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, trình độ học vấn rất thấp (2/12); bị cáo chưa có tiền án, tiền sự;

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo đã có lời khai giúp Cơ quan điều tra phát hiện tội phạm mới (vụ án “Tàng trữ trái phép chất ma túy”); sau khi hành vi phạm tội bị phát hiện, bị cáo đã đến Cơ quan điều tra đầu thú; bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số, sống ở vùng sâu, vùng xa, trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật còn hạn chế. Do vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Không có. Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt, nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có khả năng tự cải tạo nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần áp dụng hình phạt tiền nhưng trên mức khởi điểm của khung hình phạt đối với bị cáo, vừa đảm bảo việc thu nộp ngân sách Nhà nước vừa có tác dụng răn đe và cải tạo giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 188 Bộ luật Hình sự bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định nhưng xét thấy bị cáo nghề nghiệp làm ruộng; không có chức vụ, không có nghề nghiệp và công việc ổn định và đã áp dụng hình phạt chính đối với bị cáo là hình phạt tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 32 Bộ luật Hình sự.

[5] Những vấn đề liên quan:

Đối với các vấn đề khác của vụ án đã được giải quyết trong Bản án số 48/2024/HS-ST ngày 31/01/2024 của Tòa án nhân dân huyện Phong Thổ và bản án số 08/2024/HSPT ngày 10/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu nên không đề cập xử lý trong vụ án này.

[6] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1, khoản 5 Điều 188; điểm e khoản 2 Điều 32; điểm i, s, t khoản 1, 2 Điều 51; Điều 35; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự; Điều 135; Điều 136; Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phồng Mý L1 phạm tội "Buôn lậu".

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng).

3. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội buôn lậu số 119/2024/HS-ST

Số hiệu:119/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phong Thổ - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;