Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 58/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THẤT, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 58/2022/HS-ST NGÀY 18/08/2022 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 18 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 60/2022/HSST ngày 02 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2022/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. NGUYỄN TÚ O, sinh ngày 16 tháng 7 năm 2000, nơi ĐKHKTT: Thôn T, phường V, thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội; nơi tạm trú hiện nay: thôn 1, xã C, huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; giới tính: Nữ; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Bá Th và bà Phan Thị C; chồng, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 13/4/2022 đến ngày 15/4/2022 được thay thế Biện pháp ngăn chặn tạm giữ bằng Cấm đi khỏi nơi cư trú; Danh chỉ bản số 112 do Công an huyện Thạch Thất lập ngày 15/4/2022. Có mặt.

2. NGUYỄN HẢI L, sinh năm 1978, nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: thôn Th, xã Ph, huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Mạnh L1 (đã chết) và bà Nguyễn Thị L2; vợ: Nguyễn Kim D (đã ly hôn); con: Có 02 con, lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 29/12/2021 đến ngày 07/01/2022 được thay thế Biện pháp ngăn chặn tạm giữ bằng Cấm đi khỏi nơi cư trú; Danh chỉ bản số 019 do Công an huyện Thạch Thất lập ngày 07/01/2022. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Xuân H- sinh năm 1980, Địa chỉ: Thôn Ng, xã A, huyện Hoài Đức, Thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

Người làm chứng:

- Anh Trần Tiến T, sinh năm 1993. Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn Th, xã Ph, huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội.

- Anh Đặng Duy Q, sinh năm 2000. Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn 1, xã Th, huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Nguyễn Tú O, thuê nhà trọ và sinh sống tại Thôn 1, xã Th, huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội. Quá trình sinh sống ở đây, bị cáo O có chơi và quan hệ bạn bè thân thiết với bị cáo Nguyễn Hải L cũng đang kinh doanh quán Hát cho nhau nghe IDOL tại Thôn 1, xã Th, huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội.

Khoảng cuối tháng 11/2021, O đặt mua của một người không quen biết trên mạng xã hội Facebook có tên tài khoản là “Omachi” được 23 cây thuốc lá trong đó có 10 cây thuốc lá nhãn hiệu “555 GOLD” màu xanh, 10 cây thuốc lá nhãn hiệu “ZEST MARULA” màu vàng và 03 cây thuốc lá nhãn hiệu “ESE” màu nâu đen với số tiền 4.700.000đ (bốn triệu bảy trăm nghìn đồng). Tất cả số thuốc lá trên đều do nước ngoài sản xuất mà không có hóa đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc xuất xứ. Sau khi mua được số thuốc lá trên, Nguyễn Tú O sử dụng số điện thoại: 0866.602.222 và tài khoản Facebook “Oanh Elly” để đăng bài bán thuốc lá. Đến khoảng giữa tháng 12/2021 thì có một người sử dụng tài khoản Facebook có tên “Hà Đông” đặt mua của Oanh 200 cây thuốc lá nhãn hiệu “555 GOLD” do nước ngoài sản xuất, thỏa thuận với số tiền 35.000.000đ (ba mươi lăm triệu đồng). O đồng ý và tiếp tục nhắn tin đặt mua 200 cây thuốc lá “555 GOLD” của người sử dụng tài khoản Facebook có tên “Omachi” với số tiền 25.000.000đ (hai mươi lăm triệu đồng) và hẹn sẽ giao hàng làm hai lần.

Ngày 19/12/2021, Nguyễn Tú O có triệu chứng nhiễm Covid-19, biết phải đi cách ly, điều trị nên không tự thực hiện được việc mua bán thuốc lá nên O đã sử dụng tài khoản Facebook có tên “Oanh Elly” nhắn tin đến tài khoản Facebook có tên “Ngua hoang” của Nguyễn Hải L, nhờ L cất giữ và bán giúp thuốc lá cho khách, L đồng ý. Khoảng 19 giờ cùng ngày, O mang đến quán hát IDOL của L 01 (một) thùng xốp, bên trong có 23 cây thuốc lá và dặn L bán, giao thuốc lá cho khách, việc thanh toán tiền sẽ do O và khách thỏa thuận với nhau (trực tiếp hoặc chuyển khoản). Ngày 20/12/2021, O đến Trạm y tế xã Th, huyện Thạch Thất xét nghiệm Covid-19, kết quả “Dương tính” nên phải cách ly, điều trị tại Trạm y tế luôn từ ngày 20/12/2021.

Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 20/12/2021, Nguyễn Tú O nhắn tin nhờ L bán cho anh Nguyễn Xuân H- sinh năm 1980, HKTT: thôn Ng, xã A, huyện Hoài Đức, Thành phố Hà Nội 01 (một) cây thuốc lá nhãn hiệu “ESE” với giá 340.000 đồng (ba trăm bốn mươi nghìn đồng). Khoảng 15 phút sau, anh Nguyễn Xuân H đến quán hát IDOL và L giao cho anh H 01 (một) cây thuốc lá “ESE”, anh H chưa thành toán tiền cho bị cáo O. Khoảng 14 giờ ngày 25/12/2021, O gọi điện cho L nhờ nhận hộ 03 thùng cát tông thuốc lá “555 GOLD” từ bên chuyển phát giao đến. L đã nhận và cất giấu tại phòng hát tầng 01 của quán. Khoảng 18 giờ ngày 26/12/2021, Nguyễn Tú O tiếp tục nhắn tin nhờ L bán cho anh Trần Tiến T- sinh năm 1993, HKTT: thôn Th, xã Ph, huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội 02 (hai) cây thuốc lá nhãn hiệu “ESE” với giá 640.000 đồng (sáu trăm bốn mươi nghìn đồng). Khoảng 30 phút sau, anh Trần Tiến T đến quán hát IDOL và L giao cho anh T 02 (hai) cây thuốc lá “ESE”. Khoảng 14 giờ ngày 28/12/2021, bị cáo O tiếp tục gọi điện cho bị cáo L nhờ nhận hộ 02 thùng cát tông thuốc lá “555 GOLD” từ bên chuyển phát giao đến nhưng lúc này L không có mặt ở quán nên O yêu cầu bên giao hàng gửi tại quán cà phê “Mai over” (cạnh quán hát của L). Anh Đặng Duy Q- sinh năm 2000, trú tại thôn 1, xã Th là chủ quán cà phê “Mai over” đã nhận 02 thùng hàng trên. Sau đó O nhắn tin cho L đến quán cà phê “Mai over” lấy giúp 02 thùng hàng. L đã lấy 02 thùng hàng về và để tại chân cầu thang của quán hát. Ngày 28/12/2021, O nhắn tin cho L nói buổi chiều ngày 29/12/2021 sẽ có khách đến lấy 200 cây thuốc lá “555 GOLD” để trong 05 thùng cát tông và thu giúp số tiền 35.000.000đ (ba mươi lăm triệu đồng). Sau đó O nhắn tin số điện thoại 0984.871.978 của L cho khách mua thuốc lá để liên lạc lấy hàng. Khách mua thuốc lá đã sử dụng số điện thoại 0396.921.366 gọi điện cho L hẹn 14 giờ ngày 29/12/2021 sẽ đến lấy hàng. Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 29/12/2021, Công an huyện Thạch Thất phối hợp với Công an xã Th đi kiểm tra công tác phòng, chống dịch bệnh covid 19, khi đến quán hát IDOL của Lý thì phát hiện số thuốc lá trên. Bị cáo L không xuất trình được hóa đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc xuất xứ nên tổ Công tác đã tiến hành thu giữ và sau đó bắt giữ Nguyễn Hải L. Nguyễn Tú O điều trị bệnh Covid-19 đến ngày 30/12/2021 thì được Trạm y tế xã Th cho về nhà tiếp tục cách ly, theo dõi tại Khu tái định cư B thuộc thôn 1, xã Th, huyện Thạch Thất, Hà Nội nhưng trong thời gian này Nguyễn Tú O đã về nhà ở với mẹ đẻ ở thôn 1, xã C, huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội. Ngày 13/4/2022, Nguyễn Tú O đã đến Công an huyện Thạch Thất đầu thú.

Tang vật thu giữ gồm:

- 2100 (hai nghìn một trăm) bao thuốc lá nhãn hiệu “555 GOLD”; 100 (một trăm) bao thuốc lá nhãn hiệu “ZEST MARULA”.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh, số IMEI 1:

869035040426633; số IMEI 2: 86903504026625, bên trong lắp sim số thuê bao số:

0984871978 của bị cáo Nguyễn Hải L.

- Số tiền 640.000 đồng (sáu trăm bốn mươi nghìn đồng) do bị cáo Nguyễn Tú O giao nộp và số tiền 340.000 đồng (ba trăm bốn mươi nghìn đồng) do anh Nguyễn Xuân H giao nộp.

Tại Bản kết luận giám định số 136 ngày 05/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an TP Hà Nội kết luận: 2100 (hai nghìn một trăm) bao thuốc lá nhãn hiệu “555 GOLD” đều là thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất; 100 (một trăm) bao thuốc lá nhãn hiệu “ZEST MARULA” đều lá thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất.

Tại Điểm a, khoản 1, Điều 4 Nghị định số 59/2006/NĐ-CP; Điều 1 Nghị định số 43/2009/NĐ-CP; Phụ lục I, danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh (Ban hành kèm theo Nghị định số 43/2009/NĐ-CP ngày 07/5/2009, sửa đổi, bổ sung Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh của Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện; Văn bản hợp nhất số 19/VBHN- BCT ngày 09/5/2014 của Bộ Công thương về Nghị định quy định chi tiết Luật thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện) quy định thuốc lá điếu, xì gà và các dạng thuốc lá thành phẩm khác nhập lậu là hàng hóa cấm kinh doanh.

Đối với nguồn gốc của số thuốc lá do nước ngoài sản xuất mà Nguyễn Tú O buôn bán, bị cáo O khai nhận nhắn tin, giao dịch, mua bán qua mạng xã hội facebook với tài khoản “Omachi”. Bị cáo O chưa gặp mặt, không biết người này ở đâu. Cơ quan CSĐT- Công an huyện Thạch Thất đã tiến hành xác minh nhưng không có kết quả. Ngoài lời khai của bị cáo Nguyễn Tú O thì không có tài liệu gì khác. Vì vậy, không có căn cứ để tiếp tục điều tra, làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với người mua thuốc lá của bị cáo Nguyễn Tú O sử dụng tài khoản Facebook “Hà Đông”, bị cáo Nguyễn Tú O không quen biết, không có thông tin gì về tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người này. Cơ quan CSĐT- Công an huyện Thạch Thất đã tiến hành thu giữ thư tín, điện tín đối với số điện thoại 0396.921.366 thu được thông tin chủ thuê bao là Công ty Cổ phần du lịch và dịch vụ Hoàng Tử, địa chỉ: Thôn 6, xã Th, huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội. Làm việc với Cơ quan điều tra anh Cao Văn C- sinh năm 1982, HKTT: thôn Ph, xã B, Thạch Thất, Hà Nội là Giám đốc Công ty Cổ phần du lịch và dịch vụ Hoàng Tử cho biết: Công ty của anh C không đăng ký, không sử dụng số điện thoại 0396.921.366 và không biết ai đã lấy thông tin của Công ty để đăng ký thông tin thuê bao đối với số điện thoại 0396.921.366. Xác minh về tài khoản Facebook “Hà Đông” cũng không có thông tin gì khác. Vì vậy, không có căn cứ để tiếp tục điều tra, làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max và sim điện thoại số 0866.602.222 của bị cáo Nguyễn Tú O đã sử dụng nhắn tin mua bán thuốc lá, bị cáo Nguyễn Tú O khai nhận đã đánh rơi ngày 30/12/2021 sau khi kết thúc điều trị covid 19 tại khu vực tái định cư B, xã Th, huyện Thạch Thất, Hà Nội. Vì vậy, Cơ quan CSĐT- Công an huyện Thạch Thất không thu giữ được.

Đối với anh Nguyễn Xuân H và anh Trần Tiến T có hành vi mua thuốc lá do nước ngoài sản xuất của bị cáo Nguyễn Tú O. Anh H và anh T khai nhận mua thuốc lá để sử dụng, không kinh doanh, buôn bán và số thuốc lá mua được đã sử dụng hết. Cơ quan CSĐT- Công an huyện Thạch Thất nhận thấy không đủ căn cứ để xử lý vi phạm hành chính đối với Nguyễn Xuân H và Trần Tiến T.

Đối với anh Đặng Duy Q đã nhận giúp bị cáo Nguyễn Tú O 02 thùng hàng nhưng anh Q không biết là hàng gì. Vì vậy, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thạch Thất không đề cập xử lý đối với anh Đặng Duy Q.

Tại phiên tòa: Các bị cáo Nguyễn Tú O, Nguyễn Hải L khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Bản cáo trạng số 62/CT- VKS-TT ngày 29/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội truy tố các bị cáo Nguyễn Tú O, Nguyễn Hải L về tội “ Buôn bán hàng cấm” theo Điểm b Khoản 1 Điều 190 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị áp dụng Điểm b Khoản 1 Điều 190; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự để xử phạt: bị cáo Nguyễn Tú O từ 30 đến 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm; bị cáo Nguyễn Hải L từ 18 đến 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thửa thách từ 36 đến 48 tháng.

Miễn hình phạt bỏ sung bằng tiền cho các bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Phát mại để sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh thu giữ của bị cáo Nguyễn Hải L. Sung vào ngân sách nhà nước số tiền 980.000 đồng do bị cáo O và anh Nguyễn Xuân H giao nộp tại Cơ quan điều tra. Tiêu hủy toàn bộ số thuốc lá điếu là vật chứng của vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thạch Thất, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch Thất, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản án đã nêu. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với các tài liệu đã được thu thập trong hồ sơ, vật chứng của vụ án và lời khai của những người làm chứng. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Từ ngày 19/12/2021 đến ngày 29/12/2021, bị cáo Nguyễn Tú O đã có hành vi mua 2230 bao thuốc lá điếu các loại do nước ngoài sản xuất (giao dịch trên mạng xã hội Facebook) với giá 29.700.000 đồng mà không có hóa đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc xuất xứ, về để bán kiếm lời. Toàn bộ số thuốc lá trên bị cáo Nguyễn Tú O đã nhờ bị cáo Nguyễn Hải L cất giữ và bán hộ cho khách mua tại quán hát cho nhau nghe IDOL tại thôn 1, xã Th, huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội do L làm chủ quán. Trong số 2230 bao thuốc lá trên thì Nguyễn Hải L trực tiếp nhận hộ từ bên giao hàng là 2000 bao thuốc và đã bán được 30 bao thuốc, vì tại thời điểm nhận hàng Nguyễn Tú O đang bị cách ly tập trung để điều trị Covid-19. Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 29/12/2021 trong lúc Nguyễn Hải L đang chờ đợi để bán cho khách hàng hộ Nguyễn Tú O 2000 bao thuốc lá thì bị Công an huyện Thạch Thất kết hợp với Công an xã Th kiểm tra tình hình phòng chống dịch Covid-19 tại quán hát của Nguyễn Hải L phát hiện và thu giữ toàn bộ số thuốc lá điếu trên.

Hành vi trên của bị cáo Nguyễn Tú O đã xâm phạm đến chính sách của Nhà nước trong quản lý thuốc lá điếu nhập khẩu, xâm hại đến trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại khác, nên đã phạm tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 190 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Nguyễn Hải L đã được bị cáo Nguyễn Tú O nói cho biết số hàng O nhờ L nhận, cất giữ và bán cho khách là thuốc lá điếu nhập lậu nhưng bị cáo L vẫn nhận lời giúp. Tuy bị cáo L không được hưởng lợi nhuận gì từ việc giúp đỡ bị cáo O buôn bán thuốc lá nhưng hành vi trên của bị cáo L đã giúp sức cho bị cáo O thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, hành vi của bị cáo L đã đồng phạm với bị cáo O về tội “Buôn bán hàng cấm” với vai trò giúp sức.

Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch Thất truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn là có căn cứ.

[4]. Về hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi phạm tội của các bị cáo Nguyễn Tú O, Nguyễn Hải L là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách của Nhà nước trong quản lý thuốc lá điếu nhập khẩu, xâm hại đến trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại khác, nên phải có hình phạt nghiêm để răn đe, giáo dục các bị cáo thành người tốt.

Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo Nguyễn Tú O, Nguyễn Hải L đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên các bị cáo được hưởng hai tình tiết giảm nhẹ hình phạt theo Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Đối với bị cáo Nguyễn Tú O, sau khi phạm tội đã ra đầu thú và tự nguyện giao nộp lại số tiền thu được từ việc bán 20 bao thuốc lá nên bị cáo Nguyễn Tú O được hưởng thêm các tình tiết giảm nhẹ hình phạt theo Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Đối với bị cáo Nguyễn Hải L có bác ruột là Nguyễn Như H1 là Liệt sỹ chống Mỹ, hiện nay bị cáo L đang là người thờ cúng Liệt sỹ, nên bị cáo L được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ hình phạt theo Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Nhận thấy, các bị cáo Nguyễn Tú O, Nguyễn Hải L đều có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, có nơi cư trú rõ ràng, ổn định nên không cần thiết phải cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội mà áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự cho các bị cáo được hưởng án treo và giao các bị cáo cho chính quyền địa phương nơi các bị cáo sinh sống quản lý, giám sát cũng đủ điều kiện giáo dục các bị cáo thành người tốt.

Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo đều là người lao động tự do, thu nhập không ổn định, kinh tế khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung bằng tiền đối với các bị cáo.

[ 5]. Đối với nguồn gốc của số thuốc lá do nước ngoài sản xuất mà Nguyễn Tú O buôn bán, bị cáo O khai nhận nhắn tin, giao dịch, mua bán qua mạng xã hội facebook với tài khoản “Omachi”. Bị cáo O chưa gặp mặt, không biết người này ở đâu. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không có kết quả. Ngoài lời khai của bị cáo Nguyễn Tú O thì không có tài liệu gì khác. Vì vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ để tiếp tục điều tra, làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với người mua thuốc lá của bị cáo Nguyễn Tú O sử dụng tài khoản Facebook “Hà Đông”, bị cáo Nguyễn Tú O không quen biết, không có thông tin gì về tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người này. Cơ quan điều tra đã tiến hành thu giữ thư tín, điện tín đối với số điện thoại 0396.921.366 thu được thông tin chủ thuê bao là Công ty Cổ phần du lịch và dịch vụ Hoàng Tử, địa chỉ: Thôn 6, xã Th, huyện Thạch Thất. Làm việc với Cơ quan điều tra anh Cao Văn C là Giám đốc Công ty Cổ phần du lịch và dịch vụ Hoàng Tử cho biết: Công ty của anh C không đăng ký, không sử dụng số điện thoại 0396.921.366 và không biết ai đã lấy thông tin của Công ty để đăng ký thông tin thuê bao đối với số điện thoại 0396.921.366. Xác minh về tài khoản Facebook “Hà Đông” cũng không có thông tin gì khác. Vì vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ để tiếp tục điều tra, làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max và sim điện thoại số 0866.602.222 của bị cáo Nguyễn Tú O đã sử dụng nhắn tin mua bán thuốc lá, bị cáo Nguyễn Tú O khai nhận đã đánh rơi ngày 30/12/2021 sau khi kết thúc điều trị covid 19 tại khu vực tái định cư B, xã Th. Vì vậy, Cơ quan CSĐT- Công an huyện Thạch Thất không thu giữ được nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với anh Nguyễn Xuân H và anh Trần Tiến T có hành vi mua thuốc lá do nước ngoài sản xuất của bị cáo Nguyễn Tú O. Anh H và anh T khai nhận mua thuốc lá để sử dụng, không kinh doanh, buôn bán và số thuốc lá mua được đã sử dụng hết. Cơ quan điều tra không xử lý vi phạm đối với Nguyễn Xuân H và Trần Tiến T là đúng pháp luật.

Đối với anh Đặng Duy Q đã nhận giúp bị cáo Nguyễn Tú O 02 thùng hàng nhưng anh Q không biết là hàng gì. Vì vậy, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với anh Đặng Duy Q là đúng pháp luật.

[6]. Về xử lý vật chứng: Tiêu hủy toàn bộ số thuốc lá điếu là vật chứng của vụ án. Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh thu giữ của bị cáo Nguyễn Hải L, đây là điện thoại bị cáo L sử dụng để liên lạc kết nối với bị cáo O khi thực hiện hành vi phạm tội nên được phát mại để sung vào ngân sách nhà nước. Đối với số tiền 980.000 đồng (do bị cáo Oanh nộp 640.000 đồng và anh Nguyễn Xuân H giao nộp 340.000 đồng tại Cơ quan điều tra), đây là số tiền bị cáo O có được từ việc buôn bán thuốc lá nhập lậu và tiền do anh Hùng sử dụng để mua bán hàng cấm về sử dụng nên toàn bộ số tiền này được sung vào ngân sách nhà nước.

[7]. Về án phí: Các Bị cáo phải chịu án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Tú O, Nguyễn Hải L phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

Áp dụng Điểm b Khoản 1 Điều 190; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Tú O, Nguyễn Hải L.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tú O 30 (Ba mươi) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 (Năm) năm tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Nguyễn Tú O cho Ủy ban nhân dân xã C, huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội là nơi bị cáo O đang cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hải L 18 (Mười tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 (Ba mươi sáu) tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Nguyễn Hải L cho Ủy ban nhân dân xã Ph, huyện Thạch Thất, Thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo qui định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điểm a, Điểm b Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tiêu hủy toàn bộ số thuốc lá điếu là vật chứng của vụ án. Phát mại để sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh thu giữ của bị cáo Nguyễn Hải L.

Số vật chứng trên theo Biên bản giao nhận tài sản, tang vật số 59/THA ngày 11/8/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Thất.

Sung vào ngân sách nhà nước số tiền 980.000 đồng do bị cáo Nguyễn Tú O và anh Nguyễn Xuân H giao nộp tại Cơ quan điều tra. Số tiền này theo ủy nhiệm chi ngày 08/8/2022 của Công an huyện Thạch Thất tại Kho bạc nhà nước Thạch Thất.

Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điểm a Khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án. Các bị cáo Nguyễn Tú O, Nguyễn Hải L, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được giao nhận bản án hoặc bản án được niệm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

313
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 58/2022/HS-ST

Số hiệu:58/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thất - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;