Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 52/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÀNG LONG, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 52/2022/HS-ST NGÀY 12/08/2022 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 12 tháng 8 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 35/2022/TLHS-ST ngày 22 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 133/2022/QĐXXST - HS, ngày 28 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo:

- Bị cáo thứ nhất: Vũ Đăng Tr, sinh ngày 17 tháng 8 năm 1964 tại tỉnh BL; Nơi cư trú: B4/3 Ấp 2, xã TK, huyện BC, thành phố H; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Đăng M (chết) và bà Nguyễn Thị B (chết); có vợ tên Trần Mỹ H, sinh năm 1970 và có 02 người con (lớn nhất sinh năm 1993, nhỏ nhất sinh năm 1999); Tiền án, tiền sự: không có; Nhân thân: Tốt; bị tạm giữ từ ngày 15/4/2022 đến ngày 20/4/2022 chuyển sang tạm giam đến nay có mặt tại phiên tòa.

- Bị cáo thứ hai: Huỳnh Anh T, sinh ngày 22 tháng 8 năm 1988 tại tỉnh Trà Vinh; Nơi cư trú: Khóm 5, thị trấn LT, huyện DH, tỉnh T; Nghề nghiệp: T xế; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Huỳnh Thanh V, sinh năm 1962 và bà Trần Thị Ngọc C, sinh năm: 1965; có vợ tên Kim Hồng Th, sinh năm 1992 và có 04 người con (lớn nhất sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh năm 2018); Tiền án, tiền sự: không có; Nhân thân: Tốt; bị tạm giữ từ ngày 29/10/2021 đến ngày 01/11/2021 chuyển sang tạm giam đến nay có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo gồm:

+ Ông Nguyễn Minh L là luật sư của công ty Luật Dragon thuộc đoàn luật sư thành phố Hà Nội bào chữa cho bị cáo Vũ Đăng Tr. Có mặt.

+ Ông Nguyễn Trung T là luật sư của công ty Luật Dragon thuộc đoàn luật sư thành phố Hà Nội bào chữa cho bị cáo Vũ Đăng Tr. Có mặt.

+ Bà Huỳnh Ngọc H là luật sư của Văn phòng luật sư Huỳnh Ngọc H thuộc đoàn luật sư thành phố H bào chữa cho bị cáo Vũ Đăng Tr. Có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Ngô Thành Ph, sinh năm 2003 Địa chỉ: ấp M, xã Mỹ L, huyện C, tỉnh T. Có mặt.

+ Ông Huỳnh Anh T, sinh năm 1984 Địa chỉ: Khóm 5, thị trấn LT, huyện DH, tỉnh T. Có mặt.

+ Ông Nguyễn Duy Kh, sinh năm 1982 Địa chỉ: ấp A, xã T, huyện C, tỉnh T. Vắng mặt.

+ Ông Trần Minh Th, sinh năm 1973 Địa chỉ: phường A, quận B, thành phố H. Vắng mặt.

+ Bà Trần Mỹ H, sinh năm 1970 Địa chỉ: B4/3, Ấp 2, xã TK, huyện BC, thành phố H. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các T liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ ngày 28 tháng 10 năm 2021, do nhu cầu mua thuốc lá điếu để bán lại cho người tên Q và H ở xã Ngũ Lạc, huyện DH, tỉnh T, Huỳnh Anh T sử dụng số điện thoại 0373888424 gọi vào số điện di động 0908185176 của Vũ Đăng Tr đặt mua 3.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu JET và HERO (1.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu JET và 1.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu HERO) Tr đồng ý bán với số lượng mà T đặt mua và thống nhất giá bán thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu JET giá 19.000 đồng/01 bao và thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu HERO giá 16.000 đồng/01 bao. Sau khi thống nhất, khoảng 16 giờ cùng ngày, T thuê Ngô Thành Ph cùng đi giao hải sản tại siêu thị GO ở vòng xoay An Lạc, thành phố H tiền công là 250.000 đồng. Giao hải sản xong khoảng hơn 20 giờ cùng ngày T điều khiển xe ô tô tải biển kiểm soát 54T - 6531 chở Ngô Thành Ph đến trước cửa nhà của Tr, địa chỉ B4/3, ấp 2, xã TK, huyện BC, thành phố H, T kêu Ngô Thành Ph xuống xe và dặn Ngô Thành Ph đứng chờ nếu có người đẩy thùng giấy ra thì đưa vào thùng xe (cửa bên hông phải xe), còn T đi vào nhà gặp Tr trả 52.500.000 đồng tiền mua thuốc lá điếu nhập lậu. Tại đây lúc này có hai người phụ nữ (không rõ họ tên địa chỉ) là khách hàng đến mua gạo và xà bông (nhà của Tr có tạp hóa), Tr dùng xe đẩy hàng bằng tay (xe được làm bằng kim loại, xe có hai bánh, màu cam) đẩy từ trong nhà ra 06 thùng giấy màu vàng có dán băng keo, bên trong 06 thùng giấy này có chứa 3.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu JET và HERO (1.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu JET và 1.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu HERO). Sau đó, Ngô Thành Ph đưa hết 06 thùng giấy màu vàng có dán băng keo lên xe ô tô tải biển kiểm soát 54T - 6531 của T, Ngô Thành Ph không biết bên trong 06 thùng giấy là thuốc lá điếu nhập lậu. Sau đó, T điều khiển ô tô tải biển số 54T - 6531 chở Ngô Thành Ph cùng số thuốc lá điếu nhập lậu vừa mua được từ nhà của Tr về huyện DH, tỉnh T. Khi đến khu vực gần trạm thu phí cầu Cổ Chiến thuộc ấp Hạ, xã Đại Phước, huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh thì bị lực lượng Công an huyện Càng Long phối hợp với Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu Công an tỉnh Trà Vinh bắt quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật nêu trên. Đến ngày 15 tháng 4 năm 2022 Vũ Đăng Tr đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Càng Long đầu thú, khai nhận toàn bộ hành vi sự việc bán 3.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu, nhãn hiệu JET và nhãn hiệu HERO cho T và thu nhận tiền trực tiếp từ T. Ngoài ra, Huỳnh Anh T còn khai nhận, cách ngày bị bắt quả tang khoảng hơn nữa tháng trước đó, T có mua từ Tr 500 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu JET và 500 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu HERO về bán lại cho một người đàn ông không rõ họ tên địa chỉ ở huyện DH, tỉnh T thu lợi được 1.400.000 đồng và tiêu xài hết. Đối với hành vi buôn bán hàng cấm nêu trên do không xác định được người nam thanh niên, chỉ có duy nhất lời khai của Huỳnh Anh T vì Tr không thừa nhận hành vi đã bán thuốc lá điếu nhập lậu cho T nên không đủ căn cứ xử lý.

Tại Văn bản số 435/CQLTT-NVTH ngày 03 tháng 12 năm 2021 của Cục quản lý thị Tr tỉnh Trà Vinh thông tin về nguồn gốc hàng hóa số thuốc lá trên không có tem nhập khẩu, không in hình cảnh báo sức khỏe và chữ viết tiếng Việt. Toàn bộ số thuốc lá nêu trên không đủ điều kiện nhập khẩu và lưu thông tại thị Tr Việt Nam.

Về vật chứng: Trong quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra thu giữ gồm: Thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu JET 1.500 bao; Thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu HERO 1.500 bao; 01 xe ô tô tải biển số 54T - 6531, nhãn hiệu ISUZU, số loại NHR55E - FL, số máy: 116797, số khung: JAANHR55E47100436, màu sơn trắng; 06 thùng giấy màu vàng đã qua sử dụng.

Tạm giữ từ Huỳnh Anh T: 01 điện thoại di động nhãn hiệu REDMI, màn hình cảm ứng, màu đen, số IMEI 1: 867622047142909, số IMEI 2: 867622047142917, gắn sim số thuê bao: 0373888424, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, màn hình cảm ứng, màu xanh, số IMEI 1: 354402102468733, SỐ IMEI 2: 354403102468731, gắn sim số thuê bao: 0918070781, đã qua sử dụng; 01 giấy phép lái xe hạng E, số 940213219879; 01 giấy chứng nhận đăng kí xe ô tô biển số 54T - 6531, số: 018721; 01 giấy chứng nhận kiểm định số: 7561890; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm xe ô tô số: CI21CB0018283; Tiền VNĐ: 26.000.000 đồng.

Tạm giữ từ Ngô Thành Ph: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màn hình cảm ứng, màu hồng, máy đã tắt nguồn không khởi động được.

Tạm giữ từ Vũ Đăng Tr: 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE, màn hình cảm ứng, màu trắng, ốp lưng màu vàng, có gắn sim điện thoại số: 0980185176, số seri: FDRR3BHWG5MP, số IMEI: 355411073135790.

Tạm giữ từ bà Trần Mỹ H giao nộp: 01 xe mô tô gắn biển số 52N4 - 8513, nhãn hiệu HONDA DREAM, màu sơn: nâu - trắng, số khung: RLHHA08051Y011258; số máy: HA08E0011268, xe đã qua sử dụng; 01 xe đẩy hàng bằng tay, được làm bằng kim loại, xe có hai bánh, màu sơn: màu cam (có chụp ảnh kèm theo).

Ngày 30 tháng 10 năm 2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Càng Long đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Huỳnh Anh T và ngày 20/4/2022 khởi tố bị can Vũ Đăng Tr cùng về tội “Buôn bán hàng cấm” quy định tại điểm e khoản 2 Điều 190 của Bộ luật hình sự.

Đối với Ngô Thành Ph, vào ngày 28/10/2021 hoàn toàn không biết việc Huỳnh Anh T mua bán thuốc lá điếu nhập lậu nên chưa đủ cơ sở để xử lý hình sự.

Đối với Hồ Thị Thu H, Nguyễn Huỳnh Thanh Quan, Trần Minh Lâm và Trần Trọng Quyền quá trình làm việc không đủ căn cứ để chứng minh việc mua bán thuốc lá với Huỳnh Anh T và Vũ Đăng Tr nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Càng Long không truy cứu trách nhiệm hình sự.

Đối với hai người phụ nữ đến mua gạo và xà bông đẩy thuốc lá ra cửa cho Vũ Đăng Tr qua điều tra chưa xác định được họ tên, địa chỉ, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh khi nào tìm được sẽ xử lý sau. Còn người phụ nữ tên Hồng làm tạp vụ qua điều tra chưa xác định được họ tên, địa chỉ, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ, nếu có đủ cơ sở sẽ xử lý sau.

Bà Trần Mỹ H và hai con của Vũ Đăng Tr là Vũ Phương Th và Vũ Minh T hoàn toàn không biết việc buôn bán hàng cấm của Vũ Đăng Tr nên không xử lý.

Cáo trạng số 37/CT-VKS-HS ngày 21 tháng 6 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Càng Long truy tố các bị can Huỳnh Anh T và Vũ Đăng Tr về tội “Buôn bán hàng cấm” quy định tại điểm e khoản 2 Điều 190 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo Huỳnh Anh T và Vũ Đăng Tr đã khai và thừa nhận hành vi phạm tội của bản thân như đã khai tại cơ quan điều tra nhưng đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Quan điểm của Vị Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Càng Long: Vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng. Căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm e khoản 2, 4 Điều 190 của Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Huỳnh Anh T từ 05 năm đến 06 năm tù về tội “Mua bán hàng cấm”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/10/2021 và phạt bổ sung số tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng. Áp dụng: điểm e khoản 2, 4 Điều 190 của Bộ luật hình sự; điểm b, s, v khoản 1, 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Vũ Đăng Tr từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán hàng cấm”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/4/2022 và phạt bổ sung số tiền từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng. Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng và buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Ý kiến luật sư Nguyễn Minh L, luật sư Nguyễn Trung T và luật sư Huỳnh Ngọc H tham gia bào chữa cho bị cáo Tr phát biu quan điểm: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đối với vật chứng phạm tội 3.000 bao thuốc lá của bị cáo Tr bán cho bị cáo T nhưng chưa được cơ quan điều tra định giá là thiếu xót. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo Tr đã thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải, có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo Tr được cấp chỉ huy quân sự tỉnh Hậu Giang tặng huy chương chiến sĩ vẻ vang và có cha vợ là người có công cách mạng, trong phạm tội này bị cáo đầu thú và tác động người thân khắc phục hậu quả nộp lại số tiền bán thuốc lá điếu và hiện nay bị cáo Tr lớn tuổi, bị nhiều căn bệnh nên đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt mức thấp nhất cho bị cáo Tr được hưởng án treo.

Các bị cáo nói lời sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Bị cáo Tr và bị cáo T thừa nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát, đồng thời có thái độ thành khẩn, ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được hanh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Càng Long, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Càng Long, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo và các đương sự trong vụ án không cung cấp chứng cứ mới và không yêu cầu triệu tập ai khác để tham gia phiên tòa.

[2] Về việc vắng mặt người tham gia tố tụng: Tại phiên toà, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Duy Kh và ông Trần Minh Th vắng mặt nhưng các đương sự này đã có lời khai rõ tại Cơ quan điều tra nên không cần thiết phải hoãn phiên tòa. Căn cứ khoản 1 Điều 292 và khoản 1 Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án.

[3] Về chứng cứ và tội danh đối với hành vi của bị cáo: Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Huỳnh Anh T và bị cáo Vũ Đăng Tr đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo, lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, Văn bản số 435/CQLTT-NVTH ngày 03/12/2021 của Cục quản lý thị Tr tỉnh Trà Vinh và các T liệu chứng cứ khác được xét hỏi công khai tại phiên tòa cùng với toàn bộ chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, làm rõ tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Do mục đích tư lợi cá nhân, muốn kiếm tiền bất chính nên ngày 28 tháng 10 năm 2021, bị cáo Huỳnh Anh T điều khiển xe ô tô tải biển kiểm soát 54T - 6531 chở Ngô Thành Ph (người làm thuê) đến nhà của bị cáo Vũ Đăng Tr, địa chỉ B4/3, ấp 2, xã TK, huyện BC, thành phố H để mua trái phép 1.500 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu JET và 1.500 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu HERO của bị cáo Tr với giá 52.500.000 đồng. Sau khi giao nhận xong, T điều khiển ô tô tải biển số 54T - 6531 chở Ngô Thành Ph cùng số thuốc lá điếu nhập lậu vừa mua được từ nhà của Tr về huyện DH, tỉnh T mục đích để bán lại kiếm lời thì bị bắt quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật nêu trên còn bị cáo Tr đến ngày 15/4/2022 ra đầu thú thừa nhận hành vi phạm tội. Theo Văn bản số 435/CQLTT-NVTH ngày 03/12/2021 của Cục quản lý thị Tr tỉnh Trà Vinh thì các loại thuốc lá điếu thu giữ trên đều nhập lậu, không có hóa đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc, xuất xứ. Do đó, có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo Huỳnh Anh T và bị cáo Vũ Đăng Tr vi phạm về phạm tội “Buôn bán hàng cấm” quy định tại điểm e khoản 2 Điều 190 của Bộ luật hình sự như kết luận của Viện kiểm sát đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai.

[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Bị cáo T và bị cáo Tr đều có đầy đủ năng lực hành vi và nhận thức được rằng việc buôn bán thuốc lá điếu nêu trên là vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe người tiêu dùng, ảnh hưởng đến uy tín và hoạt động kinh doanh hợp pháp của các tổ chức kinh tế, xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý kinh tế, mà cụ thể là trật tự quản lý việc sản xuất buôn bán hàng hóa, chống hàng giả của các cơ quan quản lý Nhà nước. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Nhưng do không có ý thức chấp hành pháp luật, muốn có tiền nhanh mà không phải lao động nhiều nên bị cáo Huỳnh Anh T và bị cáo Vũ Đăng Tr đã cố ý thực hiện hành vi buôn bán hàng cấm.

[5] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Huỳnh Anh T và bị cáo Vũ Đăng Tr đều có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Như đã phân tích trên thì thuốc lá điếu sản xuất ở nước ngoài là mặt hàng cấm kinh doanh trong nước nếu không được cấp phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bị cáo Huỳnh Anh T mua của bị cáo Vũ Đăng Tr 3.000 bao thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất nhưng không có hóa đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc, xuất xứ. Bản thân bị cáo T và bị cáo Tr không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép kinh doanh mặt hàng này. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm nên phải chịu tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm e khoản 2 Điều 190 Bộ luật hình sự là phạm tội thuộc Tr hợp buôn bán “Thuốc lá điếu nhập lậu từ 3.000 bao đến dưới 4.500 bao”, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết xử phạt các bị cáo mức hình phạt tương xứng, cần cách ly các bị cáo một thời gian để giáo dục ý thức pháp luật và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải, có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo Tr được cấp chỉ huy quân sự tỉnh Hậu Giang tặng huy chương chiến sĩ vẽ vang và có cha vợ là người có công cách mạng, trong phạm tội này bị cáo đầu thú và tác động người thân hoàn nộp lại tất cả số tiền đã bán thuốc lá. Vì vậy, bị cáo Tr được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đối với bị cáo T có người thân tham gia cách mạng gồm: ông bác Trần Ngọc Yến là Liệt Sĩ và chú ruột Huỳnh Thanh Trung được tặng Bằng khen xuất sắc trong Ph trào chữ Thập đỏ nên bị cáo T được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại phiên toà hôm nay, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Tr có nhiều tình tiết giảm nhẹ và có tiền sự bị bệnh viêm da cơ địa cùng một số bệnh lý khác nên cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật quy định. Đó cũng có tác dụng giáo dục nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với bị cáo.

[6] Quá trình điều tra, bị cáo Huỳnh Anh T còn khai nhận, cách ngày bị bắt quả tang khoảng hơn nữa tháng trước đó có mua từ bị cáo Tr 500 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu JET và 500 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu HERO về bán lại cho một người đàn ông không rõ họ tên địa chỉ ở huyện DH, tỉnh T thu lợi được 1.400.000 đồng và tiêu xài hết nhưng hành vi trên do không xác định được người nam thanh niên và bị cáo Tr không thừa nhận, chỉ có duy nhất lời khai của bị cáo T nên không đủ căn cứ xử lý. Đối với Ngô Thành Ph chỉ là người được bị cáo T thuê đi giao hàng thực phẩm tại siêu thị GO ở thành phố H không biết việc bị cáo T mua bán thuốc lá điếu nhập lậu nên chưa đủ cơ sở để xử lý hình sự. Đối với Hồ Thị Thu H, Nguyễn Huỳnh Thanh Quan, Trần Minh Lâm và Trần Trọng Quyền, trong quá trình điều tra không đủ căn cứ để chứng minh việc mua bán thuốc lá với bị cáo T và bị cáo Tr nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Càng Long không truy cứu trách nhiệm hình sự. Đối với hai người phụ nữ đến mua gạo và xà bông đấy thuốc lá ra cửa cho bị cáo Tr qua điều tra chưa xác định được họ tên, địa chỉ, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh khi nào tìm được sẽ xử lý sau. Còn người phụ nữ tên Hồng làm tạp vụ qua điều tra chưa xác định được họ tên, địa chỉ, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ, nếu có đủ cơ sở sẽ xử lý sau. Bà Trần Mỹ H và hai con của bị cáo Tr là Vũ Phương Th và Vũ Minh T hoàn toàn không biết việc buôn bán hàng cấm của bị cáo Tr nên không có căn cứ xử lý.

[7] Xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra thu giử và chuyển vật chứng cho Cơ quan thi hành án tạm giử gồm: Thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu JET 1.500 bao; Thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu HERO 1.500 bao và 06 thùng giấy màu vàng đã qua sử dụng là tang vật của vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy; số 52.500.000 đồng do bà Trần Mỹ H là vợ của bị cáo Vũ Đăng Tr hoàn nộp lại tiền bán thuốc lá điếu nhập lậu thay cho bị cáo Tr nên cần tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước. Đối với số tiền 1.500.000 đồng do bà Trần Mỹ H là vợ của bị cáo Vũ Đăng Tr nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Càng Long. Tại phiên toà, Hội đồng xét xử xác định số tiền này không liên quan đến tiền bán thuốc lá điếu nên cần trả lại cho bà H; 01 xe ô tô tải biển số 54T - 6531, nhãn hiệu ISUZU, số loại NHR55E - FL, số máy: 116797, số khung: JAANHR55E47100436, màu sơn trắng cùng với 01 giấy chứng nhận đăng kí xe ô tô biển số 54T - 6531, số: 018721; 01 giấy chứng nhận kiểm định số: 7561890; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm xe ô tô số: CI21CB0018283. Quá trình điều tra xác định thuộc sở hữu hợp pháp của bị cáo Huỳnh Anh T và bị cáo T sử dụng xe ô tô này vào mục đích phạm tội nên cần tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước; 01 điện thoại di động nhãn hiệu REDMI, màn hình cảm ứng, màu đen, số IMEI 1: 867622047142909, số IMEI 2: 867622047142917, gắn sim số thuê bao: 0373888424, đã qua sử dụng của bị cáo Huỳnh Anh T dùng để liên lạc với bị cáo Tr mua thuốc lá nên cần tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, màn hình cảm ứng, màu xanh, số IMEI 1: 354402102468733, SỐ IMEI 2: 354403102468731, gắn sim số thuê bao: 0918070781, đã qua sử dụng; 01 giấy phép lái xe hạng E, số 940213219879 và số tiền 26.000.000 đồng của bị cáo Huỳnh Anh T, qua điều tra xác định không liên quan đến tội phạm nên cần trả lại cho bị cáo T. Riêng số tiền 26.000.000 đồng của bị cáo T sẽ được trả lại sau khi thực hiện xong nghĩa vụ thi hành án của bị cáo T; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màn hình cảm ứng, màu hồng, máy đã tắt nguồn không khởi động được không liên quan đến tội phạm nên cần trả lại cho Ngô Thành Ph; 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE, màn hình cảm ứng, màu trắng, ốp lưng màu vàng, có gán sim điện thoại số: 0980185176, số seri: FDRR3BHWG5MP, số IMEI: 355411073135790 của bà Trần Mỹ H cho bị cáo Vũ Đăng Tr sử dụng và không yêu cầu gì, tại phiên toà bị cáo Tr khai dùng điện thoại này để liên lạc với bị cáo T mua bán thuốc lá nên cần tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước; 01 xe mô tô gán biển số 52N4 - 8513, nhãn hiệu HONDA DREAM, màu sơn: nâu - tráng, số khung: RLHHA08051Y011258; số máy: HA08E0011268, xe đã qua sử dụng thuộc sở hữu của bị cáo Vũ Đăng Tr khai dùng để chở hàng và chở thuốc lá lậu nên cần tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước; 01 xe đẩy hàng bằng tay, được làm bằng kim loại, xe có hai bánh, màu sơn: màu cam của bị cáo Tr dùng để dịch chuyển hàng hóa và thuốc lá lậu nên cần tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước.

[8] Ý kiến của các vị luật sư bào chữa cho bị cáo Tr phù hợp một phần với nhận định trên được chấp nhận. Ý kiến đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Càng Long có căn cứ phù hợp với nhận định trên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Tuy nhiên, đối với đề nghị mức hình phạt áp dụng cho bị cáo Tr còn thấp chưa đủ tính răng đe và tính công bằng cho bị cáo khác nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét và quyết định theo quy định pháp luật.

[9] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Tr và bị cáo T phải nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 45; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 260; Điều 268; Điều 269; khoản 1 Điều 292 và khoản 1 Điều 293; Điều 299; Điều 331; khoản 2 Điều 329 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Tuyên bố các bị cáo Huỳnh Anh T và Vũ Đăng Tr phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

Căn cứ điểm e khoản 2, khoản 4 Điều 190 Bộ luật Hỉnh sự; điểm b, s, V khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 của Bộ luật hình sự.

Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Vũ Đăng Tr 03 (Ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15 tháng 4 năm 2022.

Hình phạt bổ sung: Xử phạt bị cáo Vũ Đăng Tr số tiền 30.000.000 (Ba mươi triệu) đồng.

Căn cứ điểm e khoản 2, khoản 4 Điều 190 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Huỳnh Anh T 05 (Năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày ngày 29 tháng 10 năm 2021.

Hình phạt bổ sung: Xử phạt bị cáo Huỳnh Anh T số tiền 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47, khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 1.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu JET; 1.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu HERO và 06 thùng giấy màu vàng đã qua sử dụng;

- Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước số tiền bán thuốc lá điếu nhập lậu 52.500.000 (Năm mươi hai triệu năm trăm ngàn) đồng theo biên lai thu số 001466 ngày 20 tháng 6 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Càng Long.

- Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước 01 xe ô tô tải biển số 54T - 6531, nhãn hiệu ISUZU, số loại NHR55E - FL, số máy: 116797, số khung: JAANHR55E47100436, màu sơn trắng cùng với 01 giấy chứng nhận đăng kí xe ô tô biển số 54T - 6531, số: 018721; 01 giấy chứng nhận kiểm định số: 7561890; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm xe ô tô số: CI21CB0018283.

- Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước gồm 01 điện thoại di động nhãn hiệu REDMI, màn hình cảm ứng, màu đen, số IMEI 1: 867622047142909, số IMEI 2: 867622047142917, gán sim số thuê bao: 0373888424, đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE, màn hình cảm ứng, màu tráng, ốp lưng màu vàng, có gán sim điện thoại số: 0980185176, số seri: FDRR3BHWG5MP, số IMEI: 355411073135790.

- Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước 01 xe mô tô gắn biển số 52N4 - 8513, nhãn hiệu HONDA DREAM, màu sơn: nâu - trắng, số khung: RLHHA08051Y011258; số máy: HA08E0011268, xe đã qua sử dụng và 01 xe đẩy hàng bằng tay, được làm bằng kim loại, xe có hai bánh, màu sơn: màu cam.

- Trả lại cho Ngô Thành Ph 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màn hình cảm ứng, màu hồng, máy đã tắt nguồn không khởi động được.

- Trả lại cho bị cáo Huỳnh Anh T gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, màn hình cảm ứng, màu xanh, số IMEI 1: 354402102468733, số IMEI 2: 354403102468731, gán sim số thuê bao: 0918070781, đã qua sử dụng; 01 giấy phép lái xe hạng E, số 940213219879; 01 giấy phép lái xe hạng E, số 940213219879.

- Trả lại cho bị cáo Huỳnh Anh T sau khi thực hiện xong nghĩa vụ thi hành án số tiền 26.000.000 (Hai mươi sáu triệu) đồng theo biên lai thu số 001472 ngày 29 tháng 6 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Càng Long.

- Trả lại số tiền 1.500.000 (Một triệu năm trăm ngàn) đồng cho bà Trần Mỹ H theo biên lai thu số 001466 ngày 20 tháng 6 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Càng Long.

Các vật chứng trên đang tạm giử tại Cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Huỳnh Anh T và Vũ Đăng Tr mỗi bị cáo nộp số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; Điều 7 và Điều 9 của Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 52/2022/HS-ST

Số hiệu:52/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Càng Long - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;