TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ DẦU, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 43/2021/HS-ST NGÀY 06/05/2021 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM
Ngày 06 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 44/2021/TLST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2021/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 4 năm 2021, đối với bị cáo:
Nguyễn Đình Hải Th, tên gọi khác: Bé, sinh năm 1998, tại tỉnh A; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú hiện nay: ấp B, xã C, thị xã D, tỉnh A; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Cao Đài; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Đình Sáu, sinh năm 1965 và bà Nguyễn Ngọc Tú, sinh năm 1965; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự:
không có; bị cáo tại ngoại; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Nguyễn Đình Hải Th thường xuyên sử dụng nickname “Bé Cúp Bé Cúp” lên mạng xã hội Facebook để mua bán pháo nổ nhằm để thu lợi. Ngày 20/12/2020, người nữ có nickname “ThùyVân” nhắn tin vào nickname của bị cáo đặt mua 50 bịch pháo banh thì bị cáo báo giá 370.000 đồng/bịch. Sau đó, bị cáo gọi điện thoại cho người nam tên Boy không rõ lý lịch đặt mua 50 bịch pháo banh với giá 310.000 đồng/bịch.
Đến khoảng 02 giờ ngày 24/12/2020, người tên Boy gọi điện thoại cho bị cáo thông báo đã có pháo và hẹn giao nhận pháo tại khu vực cầu Mỹ Bình thuộc xã E, huyện F, tỉnh G. Bị cáo gọi cho người nữ có nickname “ThùyVân” thông báo đã có pháo thì người này hẹn địa điểm giao nhận pháo tại khu vực xã H, huyện I. Bị cáo điều khiển xe môtô đến rủ Phạm Thế V đi bán xe của bị cáo để lấy tiền mua pháo nhưng V không nghe vì đang ngủ. Bị cáo điều khiển xe đến khu vực cầu Mỹ Bình gặp người tên Boy mua 50 bịch pháo banh với giá 15.500.000 đồng. Do không đủ tiền mua pháo nên bị cáo bán xe môtô cho người này với giá 2.500.000 đồng.
Sau khi nhận pháo, bị cáo bỏ pháo vào 01 túi xách và 02 bao nylon, rồi nhờ người này chở bị cáo cùng số pháo về nhà của V. Tại đây, bị cáo rủ V về nhà của bị cáo chơi thì V đồng ý. V lấy xe môtô biển số 62S1-252.61 của V đưa cho bị cáo điều khiển chở 02 bao nylon chứa pháo để ở baga giữa xe, còn V ngồi phía sau ôm túi xách chứa pháo. Khi đến trước quán cà phê Lộc Vừng thuộc thị trấn I, bị cáo để pháo xuống và kêu V đứng đợi. Bị cáo điều khiển xe đến khu vực cây xăng số 89 thuộc ấp cây Trắc, xã H, huyện I thì gặp 01 người thanh niên xưng là em của người nữ có nickname “ThùyVân”. Người này kêu bị cáo đứng đợi để về lấy tiền ra trả tiền mua pháo.
Trong lúc đứng đợi, bị cáo gọi điện thoại kêu V đón taxi đem túi xách và 02 bao nylon đến cây xăng số 89. Lúc này, anh Nguyễn Văn Ch điều khiển xe taxi biển số 70A-188.62 của hãng Mai Linh đến chở V cùng túi xách và 02 bao nylon chứa pháo. Đến 6 giờ 45 phút cùng ngày, khi đến khu vực cây xăng 89 thì bị Công an huyện Gò Dầu kiểm tra bắt quả tang cùng vật chứng 01 túi xách và 02 bao nylon có chứa 22,4kg pháo.
Quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bị cáo.
Tại Kết luận giám định số 132 ngày 29/12/2020 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 01 túi vải có chữ “NIKE” chứa các vật hình cầu, vỏ bằng nhựa, nhiều màu sắc, đường kính mỗi vật 2,5cm, 01 đầu có gắn đoạn dây màu xanh, tổng khối lượng 7,8kg, gửi đến giám định đều là pháo nổ; 01 bao nylon có chữ “CARGILL” (Ký hiệu bao 1) chứa các vật hình cầu, vỏ bằng nhựa, nhiều màu sắc, đường kính mỗi vật 2,5cm, 01 đầu có gắn đoạn dây màu xanh, tổng khối lượng 7,4kg, gửi đến giám định đều là pháo nổ;
01 bao nylon có chữ “CARGILL” (Ký hiệu bao 2) chứa các vật hình cầu, vỏ bằng nhựa, nhiều màu sắc, đường kính mỗi vật 2,5cm, 01 đầu có gắn đoạn dây màu xanh, tổng khối lượng 7,2kg, gửi đến giám định đều là pháo nổ.
Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 106, màu đen, số Imei: 354184109456461, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động hiệu Samsung galaxy A10S, màu đen, số seri R9AM8024VHJ, đã qua sử dụng; 50 túi nylon chứa 4.999 vật hình cầu, vỏ bằng nhựa nhiều màu sắc, đường kính mỗi vật là 2,7 cm, 01 đầu có gắn đoạn dây màu xanh, tổng khối lượng là 22,4 kg (pháo nổ) Về kê biên tài sản: Do bị cáo không có sở hữu tài sản nên Cơ quan điều tra không kê biên.
Đối với người tên Boy bán pháo cho bị cáo và người có nickname “ThùyVân” mua pháo của bị cáo, do không rõ lý lịch nên Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ xử lý sau.
Đối với Phạm Thế V và Nguyễn Văn Ch có hành vi vận chuyển 01 túi xách và 02 bao nylon nhưng không biết bên trong là pháo nổ nên Cơ quan điều tra không xử lý.
Bản cáo trạng số 47/CT-VKSGD ngày 29-3-2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh truy tố bị cáo Nguyễn Đình Hải Th về tội “Buôn bán hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
Bị cáo đã thành khẩn thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu giữ nguyên nội dung truy tố đối với bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 190, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình Hải Th (Bé) phạm tội “Buôn bán hàng cấm”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình Hải Th (Bé) từ 12 tháng đến 18 tháng nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 36 tháng.
Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Xử lý vật chứng: Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
Bị cáo nói lời nói sau cùng: Xin Hội đồng xét xử cho bị cáo mức án thấp nhất để bị cáo sớm về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gò Dầu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo: Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định: Vào lúc 06 giờ 45 phút, ngày 24-12-2020, tại khu vực cây xăng số 89 thuộc ấp Cây Trắc, xã H, huyện I, bị cáo Nguyễn Đình Hải Th có hành vi bán pháo nổ nhằm thu lợi thì bị bắt thu giữ 22,4kg pháo nổ. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Đình Hải Th đã cấu thành tội “Buôn bán hàng cấm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật Hình sự.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế, xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh một số loại hàng cấm. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hành vi dân sự, nhận thức được việc buôn bán pháo nổ là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vì mục đích lợi nhuận mà vẫn cố ý thực hiện, nên cần phải xử lý tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.
[4] Khi quyết định hình phạt có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo:
[4.1] Về tình tiết tăng nặng: Không có.
[4.2] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về hình phạt: Bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu thực hiện hành vi phạm tội, có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo và việc không bắt bị cáo đi chấp hành hình phạt tù cũng không gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Do đó, khi quyết định hình phạt không cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, mà xem xét cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
[6] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có tài sản nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7] Về xử lý vật chứng:
[7.1] Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 106, màu đen, số Imei: 354184109456461, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động hiệu Samsung galaxy A10S, màu đen, số seri R9AM8024VHJ, đã qua sử dụng là công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội, còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
[7.2] Đối với 50 túi nylon chứa 4.999 vật hình cầu, vỏ bằng nhựa nhiều màu sắc, đường kính mỗi vật là 2,7 cm, 01 đầu có gắn đoạn dây màu xanh, tổng khối lượng là 22,4 kg (pháo nổ) Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.
[8] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Gò Dầu là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[9] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bị cáo Nguyễn Đình Hải Th (Bé) phạm tội “Buôn bán hàng cấm”. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình Hải Th (Bé) 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 03 (năm) kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Đình Hải Th (Bé) cho Ủy ban nhân dân xã C, thị xã D, tỉnh A giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp bị cáo Th (Bé) thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.
“Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.
2. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
3. Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 106, màu đen, số Imei: 354184109456461, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động hiệu Samsung galaxy A10S, màu đen, số seri R9AM8024VHJ, đã qua sử dụng.
(Hiện vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Dầu theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 01-4-2021) - Tịch thu, tiêu hủy 50 túi nylon chứa 4.999 vật hình cầu, vỏ bằng nhựa nhiều màu sắc, đường kính mỗi vật là 2,7 cm, 01 đầu có gắn đoạn dây màu xanh, tổng khối lượng là 22,4 kg (pháo nổ).
(Hiện vật chứng đang gửi tại Phòng kỹ thuật Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Tây Ninh)
4. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016:
Bị cáo Nguyễn Đình Hải Th phải chịu: 200.000 đồng (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo đối với bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 43/2021/HS-ST
Số hiệu: | 43/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/05/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về