TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 29/2024/HS-PT NGÀY 18/03/2024 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM
Ngày 18 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đ xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 266/2023/TLPT-HS ngày 25/12/2023 đối với bị cáo Vũ Duy S, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 94/2023/HS-ST ngày 16/11/2023 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Đ.
* Bị cáo kháng cáo:
Họ và tên: Vũ Duy S, sinh năm 1991, tại Đ; nơi ĐKHKTT và cư trú: 18B AB, Phường 3, thành phố Đà Lạt, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Lái xe; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 10/12; con ông: Vũ Văn H; con bà: Trương Thị X; vợ: Nguyễn Thị Th; con: Có 01 con, sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Tại Bản án số 105/2015/HSPT ngày 21/9/2015, Tòa án nhân dân tỉnh Đ xử phạt 06 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” (đã được xóa án tích).
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14/01/2023 đến ngày 19/01/2023 được áp dụng biện pháp bảo lĩnh. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào 18h30’ ngày 14/01/2023, tại Quốc lộ 20, Thôn 4, xã Lộc An, huyện B, tỉnh Đ, Công an huyện B và Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Đ, phối hợp dừng xe ô tô nhãn hiệu Kia SoNet, màu trắng, loại 5 chỗ biển số 49A-xxxxx do Phạm Văn H điều khiển, trên xe ô tô có Vũ Duy S và Phạm Hữu L đang lưu thông theo hướng huyện Di Linh đi huyện B. Kiểm tra trên xe phát hiện dưới sàn, sau chân ghế sau dưới chân của L có 01 bịch nylon màu đen bên trong có 03 hộp giấy và dưới chân của S có 01 bịch nylon màu đen bên trong có 03 hộp giấy (nghi là pháo hoa nổ) không rõ nguồn gốc xuất xứ, không có hóa đơn chứng từ, có tổng khối lượng 10,65kg. Cơ quan CSĐT Công an huyện B đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và niêm phong 01 xe ô tô biển số 49A-xxx; tạm giữ 03 điện thoại của S, L, H1.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bảo Lâm tiến hành khám xét khẩn cấp các địa điểm:
+ Tại nhà của gia đình Phạm Hữu L (Số nhà 129, Quốc lộ 20, Xóm 3, Thôn 8, xã Liên Đầm, huyện Di Linh, tỉnh Đ), Cơ quan CSĐT Công an huyện B thu giữ được: 04 hộp pháo hoa (nghi là pháo hoa nổ), có tổng khối lượng 7,8kg, mỗi hộp có kích thước lần lượt là: 17,5cm x 17,5cm x 10cm, bên hông mỗi hộp pháo có nhiều màu sắc khác nhau như xanh, vàng, xám và có ghi dòng chữ nhưng không rõ ngôn ngữ gì và có ký hiệu giống nhau “KS4- 4911”; 01 thùng giấy cát tông có hình dáng và kích thước 36cm x 44 cm x 42cm, bên ngoài thùng giấy cát tông có ghi các chữ “CÔNG TY TNHH MTV LANGLEY”, “ĐC: Long Phước, Phước Long, Bình Phước”, “HẠT ĐIỀU RANG MUỐI BÌNH PHƯỚC”, “THÀNH PHẦN: HẠT ĐIỀU, MUỐI”.
+ Tại trụ sở Công ty M thu giữ: 48 hộp pháo hoa (nghi là pháo hoa nổ), có tổng khối lượng 88,2kg, mỗi hộp có kích thước lần lượt là: 17,5cm x 17,5cm x 10cm, bên hông mỗi hộp pháo có nhiều màu sắc khác nhau như xanh, vàng, xám và có ghi dòng chữ nhưng không rõ ngôn ngữ gì và có ký hiệu giống nhau “KS4-4911” được cất giấu trong 03 thùng giấy cát tông có hình dáng và kích thước giống nhau (36cm x 44 cm x 42cm), bên ngoài mỗi thùng giấy cát tông có ghi dòng chữ “CÔNG TY TNHH MTV LANGLEY”, “ĐC: Long Phước, Phước Long, Bình Phước”, “HẠT ĐIỀU RANG MUỐI BÌNH PHƯỚC”, “THÀNH PHẦN: HẠT ĐIỀU, MUỐI”.
Kết quả giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ (PC09):
- Tại kết luận giám định số 64/KL-KTHS ngày 16/01/2023, kết luận: 06 (Sáu) khối hình hộp chữ nhật, mỗi khối kích thước 10cm x 17,5cm x 17,5cm chứa trong thùng giấy gửi giám định là Pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo, khi đốt gây tiếng nổ). Tổng khối lượng là: 10,6kg. (vật chứng thu giữ khi bắt quả tang).
- Tại Bản kết luận giám định số: 63/KL-KTHS ngày 04/02/2023, kết luận: Tổng số 52 (Năm mươi hai) khối hình hộp chữ nhật, mỗi khối kích thước 10cm x 17,5cm x 17,5cm chứa trong các thùng giấy gửi giám định là Pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo, khi đốt gây tiếng nổ). Tổng khối lượng là: 90,8kg. Trong đó:
+ 48 (Bốn mươi tám) khối chứa trong các thùng giấy đánh số “T01”, “T02” và “T03” có khối lượng: 84kg (vật chứng thu giữ khi khám xét khẩn cấp địa điểm: trụ sở Công ty M, số 04 Ký Con, Phường 2, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Đ).
+ 04 (Bốn) khối chứa trong thùng giấy đánh số “T04” có khối lượng:
6,8kg. (vật chứng thu giữ khi khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phạm Hữu L).
Tổng khối lượng pháo nổ bị tạm giữ của vụ án là 101,4kg.
Qua điều tra xác định được hành vi buôn bán, vận chuyển pháo của S, H1, và hành vi tàng trữ hàng cấm của L như sau:
Hành vi buôn bán, vận chuyển pháo của S, H1: Vào ngày 12/01/2023, S đặt mua của đối tượng tên H (chưa rõ lai lịch) ở tỉnh Bình Phước 05 thùng pháo hoa nổ (mỗi thùng có chứa 16 hộp pháo hoa nổ) với tổng số tiền là 80.000.000 đồng (giá 1.000.000đ/01 hộp) và hẹn giao, nhận pháo tại thành phố Bảo Lộc.
Đến ngày 13/01/2023, S mượn xe ô tô nhãn hiệu Kia SoNet, màu trắng biển số 49A-xxxxx (xe mang tên bà Nguyễn Thị Vấn ở số nhà 40 Tô Hiến Thành, thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng) và rủ H1 điều khiển xe ô tô biển số 49A-xxxxx đi cùng đến thành phố Bảo Lộc nhận pháo hoa nổ thì H1 đồng ý (H1 là bạn của S nên đồng ý đi cùng, không biết trước việc giao dịch mua pháo và không nhận lợi ích gì từ S). Đến chiều 13/01/2023, S điện thoại cho bạn là Trương Thị Thảo xin ngủ lại trụ sở Công ty MEGALAND, địa chỉ số: 04 Ký Con, Phường 2, Tp. Bảo Lộc, Đ thì Thảo đồng ý và nói cho S biết chìa khóa để ở bên hông nhà.
Khoảng 03 giờ sáng ngày 14/01/2023, H1 lái xe ô tô cùng S đi đến Công ty MEGALAND, thì H1 dừng xe đợi, còn S đi bộ về phía Quảng trường Bảo Lộc để nhận pháo hoa nổ. Khi gặp H thì H giao cho S 01 xe bán tải màu trắng BKS 93… (không nhớ số đuôi) chở 05 thùng pháo (loại thùng giấy cát tông, bên ngoài ghi các chữ “CÔNG TY TNHH MTV LANGLEY”, “ĐC: Long Phước, Phước Long, Bình Phước”, “HẠT ĐIỀU RANG MUỐI BÌNH PHƯỚC”, “THÀNH PHẦN: HẠT ĐIỀU, MUỐI”; mỗi thùng có 16 hộp pháo) để S trực tiếp điều khiển chạy về bốc 03 thùng pháo vào cất vào trụ sở Công ty MEGALAND. Còn 02 thùng pháo thì S, H1 chất lên xe ô tô biển số 49A-xxx34. Sau khi lấy pháo xong, S chạy xe bán tải ra Quảng trường Bảo Lộc để trả xe lại cho H rồi đi bộ về, cùng H1 nghỉ lại tại trụ sở Công ty M. Việc mua bán pháo giữa S và H thì chưa thanh toán tiền.
Đến khoảng 06 giờ sáng ngày 14/01/2023, H1 lái xe chở S cùng 02 thùng pháo (có tổng cộng 32 hộp) để trên xe đi đến nhà Phạm Văn L để bán cho L 10 hộp pháo hoa nổ với giá tiền thỏa thuận là 13.000.000 đồng, S cho L nợ lại 1.000.000 đồng, rồi L chuyển khoản trả tiền cho S.
Sau đó, H1 và S tiếp tục điều khiển xe ô tô biển số 49A-xxxxx đi đến huyện Đức Trọng bán 01 thùng pháo hoa nổ (16 hộp) cho một người tên là Đ (chưa rõ lai lịch) với giá thỏa thuận là 17.600.000 đồng, nhưng chưa lấy tiền của Đ.
Đến 16h00’ cùng ngày S, H1 điều khiển xe ô tô biển số 49A-xxxxx đến thành phố Bảo Lộc để bán pháo cho một người tên Đ2 (không rõ nhân thân lai lịch (do L giới thiệu từ trước). Do S không biết mặt người mua nên đi đến nhà L (ở Di Linh) nhờ L đi cùng. Khi xe ô tô chạy đến đoạn quốc lộ 20, xã Lộc An, huyện B thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang thu giữ các vật chứng nêu trên.
Tổng cộng, S đã bán được là 26 hộp pháo hoa, với số tiền là 30.600.000đ (gồm 13.000.000đ + 17.600.000đ). Số tiền thu lợi bất chính là 4.600.000đ. Vũ Duy S đã nộp lại số tiền bán pháo là 12.000.000đ.
Hành vi tàng trữ trái phép hàng cấm của Phạm Văn L:
Do có ý định mua pháo để đốt trong dịp Tết Nguyên đán 2023 nên vào khoảng tháng 01/2023, L liên hệ với S để đặt mua 10 hộp pháo nổ với giá 13.000.000đ/10 hộp pháo. Đến sáng ngày 14/01/2023, S và H1 giao cho L 10 hộp pháo tại nhà của L ở Thôn 8, xã Liên Đầm, Di Linh. Sau đó, L chuyển khoản cho S 12.000.000đ tiền mua pháo, còn nợ lại 1.000.000đ. Đến trưa cùng ngày, L gọi điện thoại cho bạn là Cao Văn Đ1 kể lại việc mới mua được 10 hộp pháo thì Đ1 cùng với Nguyễn Đắc Th đến nhà L xem. Sau đó, Đ1, Th đề nghị L chia lại cho Đ1 và Th mỗi người 03 hộp pháo để đốt Tết thì L đồng ý chia lại bằng số tiền mình đã mua là 1.300.000đ/01 hộp (không lấy lời) thì Đ1, Th nói hôm sau trả tiền và lấy pháo đi về.
Ngoài ra, có một nam giới tên Đ2 (không rõ nhân thân, lai lịch, L có gặp một lần trước đó khi đi mua bán gỗ) gọi điện thoại cho L để hỏi mua 60 (sáu mươi) hộp pháo thì L cho người này số điện thoại của S để tự liên hệ đặt mua pháo. Đến chiều ngày 14/01/2023, S và H1 nhờ L đi cùng xuống Bảo Lộc để chỉ mặt Đ2 cho S. Khi xe đi đến đến xã Lộc An, huyện B, Đ thì bị lực lượng Công an bắt quả tang Cáo trạng số 82/CTr-VKSBL ngày 08/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Đ truy tố bị cáo Vũ Duy S về tội “Buôn bán hàng cấm” theo điểm g khoản 2 Điều 190 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (sau đây viết tắt là BLHS 2015) Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 94/2023/HS-ST ngày 16/11/2023 của Tòa án nhân dân huyện B đã xử;
Tuyên bố bị cáo Vũ Duy S phạm tội: “Buôn bán hàng cấm”.
Bị cáo Phạm Văn H phạm tội: “Vận chuyển hàng cấm” Bị cáo Phạm Hữu L phạm tội: “Tàng trữ hàng cấm”.
Áp dụng điểm g khoản 2, 4 Điều 190; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 BLHS 2015.
Xử phạt bị cáo Vũ Duy S 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án, được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 15/01/2023 đến ngày 19/01/2023. Phạt bổ sung bị cáo 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng.
Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 191 điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS 2015.
Xử phạt bị cáo Phạm Văn H 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án, được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 15/01/2023 đến ngày 19/01/2023.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 35 BLHS 2015.
Xử phạt bị cáo Phạm Hữu L 60.000.000 (Sáu mươi triệu) đồng.
Ngoài ra, bản án còn xử lý vật chứng, tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 28/11/2023, bị cáo Vũ Duy S kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vắng mặt không có lý do, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ. Đơn kháng cáo bị cáo không thắc mắc, khiếu nại nội dung bản án sơ thẩm, khai nhận hành vi như bản án sơ thẩm đã xét xử và xin giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ đề nghị, bị cáo vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan, việc vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử nên căn cứ điểm c khoản 1 Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự, xét xử vắng mặt bị cáo và áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (sau đây viết là HĐXX) nhận định như sau:
[1] Xét đơn kháng cáo của bị cáo gửi đến Toà án trong hạn luật định nên thời hạn kháng cáo của bị cáo là hợp lệ, nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo vắng mặt, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai. Qua xác minh của Công an Phường 3, thành phố Đà Lạt thì bị cáo Vũ Duy S không có mặt tại địa phương vào thời điểm Tòa án triệu tập. Tuy nhiên, việc vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử nên căn cứ điểm c khoản 1 Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự, xét xử vắng mặt bị cáo.
Tại cấp sơ thẩm bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố. Bản án sơ thẩm đã cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đối với bị cáo, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS 2015, xử phạt bị cáo 05 năm tù là có căn cứ, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật trong đấu tranh phòng chống tội phạm.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Duy S; HĐXX thấy rằng, bị cáo kháng cáo nhưng không xuất trình thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ đảm bảo công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 351; điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Duy S, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 94/2023/HS-ST ngày 16/11/2023 của Tòa án nhân dân huyện B.
1. Về tội danh:
Tuyên bố bị cáo Vũ Duy S phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.
2. Về hình phạt:
Áp dụng điểm g khoản 2, 4 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Vũ Duy S 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án, được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 14/01/2023 đến ngày 19/01/2023. Phạt bổ sung bị cáo Vũ Duy S 30.000.000 (Ba mươi triệu) đồng 3. Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Vũ Duy S phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 29/2024/HS-PT về tội buôn bán hàng cấm
Số hiệu: | 29/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về