Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 19/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM MỸ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 19/2020/HS-ST NGÀY 05/05/2020 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Hôm nay, ngày 05 tháng 5 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm C khai vụ án hình sự thụ lý số: 20/2020/TLST- HS ngày 23 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2020/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 4 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Bị cáo: M V C, sinh năm 1994, tại Đồng Nai; nơi cư trú: ấp S, xã X, huyện C, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá (học vấn): 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông M M, sinh năm: 1967 và bà N N, sinh năm: 1968; Chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tam giữ từ ngày 23/01/2020 đến ngày 26/01/2020 thì bị áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 04/02/2020 cho đến nay.

(Bị cáo có mặt) 2. Bị cáo: N V Q, sinh năm 1986, tại Hà Tĩnh; nơi cư trú: ấp S, xã X, huyện C, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá (học vấn): 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông N Q, sinh năm: 1957 và bà N A, sinh năm: 1961; vợ: N T, sinh năm: 1993, có 02 con lớn nhất sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tam giữ từ ngày 23/01/2020 đến ngày 26/01/2020 thì bị áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 04/02/2020 cho đến nay.

(Bị cáo có mặt) Người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông L V T, sinh năm: 1972 (Có mặt).

Địa chỉ: Ấp S, xã T, huyện X, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

Người làm chứng:

Ông T K, sinh năm: 1997 (Vắng mặt không có lý do). Địa chỉ: Tổ 4, ấp 8, xã S, huyện C, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lợi dụng dịp tết Nguyên đán năm 2020, M V C có ý định mua pháo nổ về bán để kiếm tiền lời, thực hiện ý định trên, C đi tìm và liên hệ với một người thanh niên tên Mẫn (Không rõ nhân thân lai lịch) ở khu vực ngã ba Nông trường 1, thuộc xã X, huyện C, tỉnh Đồng Nai và mua 04 khối hình hộp chữ nhật bên ngoài bọc giấy nhiều màu sắc có in chữ “BIG SHOW 49 SHOTS”, A8411 Made in China; 20 ống pháo giấy hình trụ tròn dài với tổng số tiền là 6.500.000 đồng đem về nhà cất giấu nhằm tìm nguồn để bán.

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 23/01/2020, M V C điều khiển xe mô tô biển số 60B6-xxxxx đến khu vực nghĩa địa thuộc ấp S, xã X, huyện C, tỉnh Đồng Nai, C điện thoại cho bạn là N V Q nhờ Q đến nhà của C tại ấp S, xã X, huyện C, tỉnh Đồng Nai lấy 04 hộp pháo đưa đến cho C thì Q đồng ý. Q điều khiển xe mô tô biển số 72L2-xxxxx đến nhà C, vào phòng ngủ lấy 04 hộp pháo như C đã căn dặn đem đến khu vực nghĩa địa đưa cho C thì bị lực lượng C an huyện Cẩm Mỹ phát hiện bắt quả tang, thu giữ cùng tang vật.

Qua khám xét khẩn cấp tại nhà ở của C, lực lượng C an huyện Cẩm Mỹ tiếp tục thu giữ 20 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm.

Tại bản Kết luận giám định số 1106/C09B ngày 31/01/2020, phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- 04 khối hình hộp chữ nhật, có kích thước 16,5cm x 16,5cm x 10cm bên ngoài có bọc giấy nhiều màu sắc có in chữ “BIG SHOW 49 SHOTS”, A8411 Made in China, bên trong mỗi khối có chứa 49 ống hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm gửi giám định đều là pháo có đầy đủ tính năng của pháo nổ. Bên trong có chứa thành phần thuốc pháo. Khi đốt bay lên cao, nổ và phát ra ánh sáng màu. Tổng khối lượng là 7,85 kilogam.

- 20 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm gửi đi giám định đều là pháo có đầy đủ tính năng của pháo nổ. Bên trong có chứa thành phần thuốc pháo. Khi đốt bay lên cao, nổ và phát ra ánh sáng màu. Tổng khối lượng 0,76 kilogam.

Vật chứng thu giữ:

- 04 khối hình hộp chữ nhật, có kích thước 16,5cm x 16,5cm x 10cm bên ngoài có bọc giấy nhiều màu sắc có in chữ “BIG SHOW 49 SHOTS”, A8411 Made in China, bên trong mỗi khối có chứa 49 ống hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm.

- 20 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7, màu đen số imei 353317/09/129359/8 của M V C; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, số imei 351546006700684 màu đen của N V Q dùng để liên lạc với nhau trong việc vận chuyển hàng cấm.

- 01 xe mô tô 72L2-xxxxx có số khung 6RS 61005627, số máy FMH00046339 của N V Q sử dụng để vận chuyển hàng cấm.

- 01 xe mô tô biển số 60B6-xxxxx có số khung RL1DCH4L1AA536828 số máy VZS152FMH536828 là tài sản hợp pháp đã trả lại cho M V C.

Tại bản cáo trạng số 22/CT-VKSCM ngày 20/3/2020 Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo M V C về tội “Buôn bán hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 190 của Bộ luật Hình sự và N V Q về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo M V C về tội “Buôn bán hàng cấm” và N V Q về tội “Vận chuyển hàng cấm”. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo C mức án từ từ 12 tháng đến 14 tháng tù; Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Q mức án từ 10 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách theo quy định pháp luật.

Đối với đối tượng tên Mẫn là người đã bán số pháo trên cho M V C, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra C an huyện Cẩm Mỹ tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoảng 1, Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu sung C quỹ nhà nước 01 xe mô tô 72L2-xxxxx có số khung 6RS 61005627, số máy FMH00046339 của N V Q sử dụng để vận chuyển hàng cấm.

Tich thu sung C quỹ nhà nước 01 điện thoại đi động nhãn hiệu Samsung J7, màu đen số imei 353317/09/129359/8 của M V C; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, số imei 351546006700684 màu đen của N V Q dùng để liên lạc với nhau trong việc vận chuyển hàng cấm.

Tịch thu tiêu hủy: 04 khối hình hộp chữ nhật, có kích thước 16,5cm x 16,5cm x 10cm bên ngoài có bọc giấy nhiều màu sắc có in chữ “BIG SHOW 49 SHOTS”, A8411 Made in China, bên trong mỗi khối có chứa 49 ống hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm gửi giám định đều là pháo có đầy đủ tính năng của pháo nổ; 20 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm.

Lời nói sau cùng của các bị cáo:

Bị cáo C: Bị cáo phạm tội lần đầu xin hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Q: Bị cáo phạm tội lần đầu xin hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm Q, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo, người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về xác định tội phạm: Tại phiên tòa, các bị cáo M V C và N V Q khai nhận hành vi phạm tội do mình thực hiện như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, lời khai này phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Nguyễn Văn C có hành vi mua pháo nổ đem về nhà cất giấu, mục đích bán kiếm tiền lời, sau đó vào ngày 23/01/2020, bị cáo C nhờ bị cáo N V Q giúp vận chuyển 04 hộp pháo có khối lượng 7,85 kilôgam đến khu vực nghĩa địa thuộc ấp Suối Nhát, xã Xuân Đông, huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai thì bị bắt giữ, Q không biết ý định mua bán pháo nổ của C mà chỉ nhận lời giúp C vận chuyển pháo nổ, không nhận tiền C từ C. Qua khám xét khẩn cấp tại nhà của C thu giữ thêm 20 ống pháo có khối lượng 0,76 kilôgam. Tổng khối lượng pháo C mua để bán lại kiếm tiền lời là 8,61 kilôgam, tổng khối lượng pháo Q vận chuyển trái phép là 7,85 kilôgam. Đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo M V C phạm tội “Buôn bán hàng cấm” theo điểm c, khoản 1, Điều 190 của Bộ luật Hình sự; bị cáo N V Q phạm tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm c, khoản 1, Điều 191 của Bộ luật Hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ, hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý đối với các loại hàng hoá mà Nhà nước cấm lưu thông, kinh doanh, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn bất chấp để thực hiện. Do đó, cần xử các bị cáo một mức án đúng với tính chất, hành vi phạm tội của các bị cáo để răn đe, cải tạo, giáo dục, phòng ngừa chung.

Đối với bị cáo M V C phạm tội Buôn bán hàng cấm, hành vi phạm tội của bị cáo C nguy hiểm hơn hành vi phạm tội của bị cáo Q, do đó mức hình phạt của bị cáo C phải cao hơn bị cáo Q, cần cách ly bị cáo ra khỏi cuộc sống xã hội một thời gian nhất định. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu; bị cáo là lao động chính trong gia đình; hoàn cảnh gia đình khó khăn; bị cáo không có tình tiết tăng nặng, do đó áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Đối với bị cáo N V Q phạm tội vận chuyển hàng cấm, hành vi phạm tội của bị cáo không nguy hiển bằng hành vi phạm tội của bị cáo C, do đó mức án của bị cáo Q nhẹ hơn bị cáo C, đồng thời bị cáo Q có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hơn bị cáo C, bị cáo có phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo là lao động chính trong gia đình, đang nuôi con nhỏ; bị cáo không có tình tiết tăng nặng, nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Ngoài ra, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo và việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Căn cứ vào hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/05/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc “ Hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo”, hội đồng xét xử xét thấy không cần phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù, mà chỉ cần xử phạt bị cáo mức án tù nhưng cho hưởng án treo với một thời gian thử thách cũng đủ để giáo dục bị cáo và cho bị cáo cơ hội để trở thành C dân tốt, có ích cho xã hội, đồng thời tạo điều kiện cho bị cáo chăm sóc gia đình.

Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, là lao động chính trong gia đình, thu nhập không ổn định nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:

Đối với 01 xe mô tô biển số 72L2-xxxxx (biển số đã bị thất lạc) có số khung 6RS 61005627, số máy FMH00046339 của N V Q sử dụng để vận chuyển hàng cấm cần phải tịch thu sung C quỹ nhà nước.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7, màu đen của M V C và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen của Mai Văn Q dùng để liên lạc với nhau trong việc vận chuyển hàng cấm cần phải tịch thu sung C quỹ nhà nước.

Tịch thu tiêu hủy: 04 khối hình hộp chữ nhật, có kích thước 16,5cm x 16,5cm x 10cm bên ngoài có bọc giấy nhiều màu sắc có in chữ “BIG SHOW 49 SHOTS”, A8411 Made in China, bên trong mỗi khối có chứa 49 ống hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm gửi giám định đều là pháo có đầy đủ tính năng của pháo nổ; 20 ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm [5] Đối với đối tượng tên Mẫn là người đã bán số pháo trên cho M V C, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra C an huyện Cẩm Mỹ tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

[6] Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

[7] Đề nghị của Viện kiểm sát: Xét ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh, điều khoản, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đối với các bị cáo và các vấn đề khác trong vụ án là phù hợp, có căn cứ chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo M V C phạm tội “Buôn bán hàng cấm”, bị cáo N V Q phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

Áp dụng: Điểm c, khoản 1, Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Bị cáo M V C 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án. Được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 23/01/2020 đến ngày 26/01/2020.

Áp dụng: Điểm c, khoản 1, Điều 191; điểm i, s khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Bị cáo N V Q 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho UBND xã X, huyện C, tỉnh Đồng Nai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1, Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 04 (bốn) khối hình hộp chữ nhật, có kích thước 16,5cm x 16,5cm x 10cm bên ngoài có bọc giấy nhiều màu sắc có in chữ “BIG SHOW 49 SHOTS”, A8411 Made in China, bên trong mỗi khối có chứa 49 ống hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm và 20 (hai mươi) ống giấy hình trụ tròn dài 10cm, đường kính 2,3cm.

Tịch thu sung C quỹ nhà nước 01 xe mô tô biển số 72L2-xxxxx (biển số đã bị thất lạc) có số khung 6RS61005627, số máy FMH00046339 của bị cáo N V Q.

Tich thu sung C quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7, màu đen của bị cáo M V C và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen của bị cáo Mai Văn Q.

(Các vật chứng nêu trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cẩm Mỹ theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 23/03/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra C an huyện Cẩm Mỹ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cẩm Mỹ).

3. Án phí: Áp dụng khoản 2, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a, khoản 1, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Buộc bị cáo C và bị cáo Q mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Q kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Các bị cáo, người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan được Q kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 19/2020/HS-ST

Số hiệu:19/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Mỹ - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;