TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 407/2021/HS-ST NGÀY 17/12/2021 VỀ TỘI BẮT NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT
Trong các ngày 15 và ngày 17 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 385/2021/TLST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2021. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 94/2021/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 3 năm 2020 đối với các bị cáo:
Nguyễn Hoàng Ph, sinh năm 1997 tại tỉnh An Giang; nơi cư trú: Ấp P, xã P, huyện An Phú, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Hòa Hảo; con ông Nguyễn Văn Nh (đã chết) và bà Trương Kim T; tiền án: Ngày 10/6/2015 Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Thuận An, tỉnh Bình Dương xử 04 năm 06 tháng tù về tội Cướp tài sản theo Bản án số 198/2015/HSST ngày 04/6/2015, chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/02/2018; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 31/5/2021 (bắt theo lệnh truy nã) đến nay, có mặt.
- Bị hại: Phạm Nguyên V, sinh ngày 02/8/2004; nơi cư trú: Ấp T, xã Kh, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre, vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Nguyễn Thanh S, sinh năm 1979 và bà Phạm Thị Mỹ H, sinh năm 1984; nơi cư trú: Ấp T, xã Kh, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre – là cha và mẹ của bị hại, vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Bà Nguyễn Thị Thanh Th, sinh ngày 18/4/2003; nơi cư trú: Ấp Đ, xã Đ huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ, vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của bà Nguyễn Thị Thanh Th: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1963 và bà Trần Thị Ngọc Ch, sinh năm 1969; nơi cư trú: Ấp Đ, xã Đ, huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ, vắng mặt.
2. Ông Trịnh Văn Th, sinh ngày 20/10/2003; nơi cư trú: Ấp Đ, xã Đ, huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ, có đơn xin xét xử vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của ông Trịnh Văn Th: Ông Trịnh Vũ Nh, sinh năm 1974 và bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1983; nơi cư trú: Ấp Đ, xã Đ, huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ, vắng mặt.
3. Ông Nguyễn Văn H, sinh ngày 15/8/2000; nơi cư trú: Ấp Đ, xã Đ, huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ, vắng mặt.
4. Ông Nguyễn Lâm V, sinh năm 1997; nơi cư trú: Ấp Đ, xã Đ, huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ, vắng mặt.
5. Ông Trịnh Văn Th, sinh ngày 19/9/2001; nơi cư trú: Ấp Đô xã Đ, huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ, vắng mặt.
6. Bà Phạm Thị Hạnh Ng, sinh năm 2002; nơi cư trú: Ấp T, xã Kh, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre, vắng mặt.
7. Ông Thạch L, sinh năm 1962; nơi cư trú: Ấp 5, S, huyện L, tỉnh Đồng Nai, vắng mặt.
8. Bà Huỳnh Thị Mỹ H, sinh năm 1979; nơi cư trú: Ấp Đô, xã Đ, huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ, vắng mặt.
- Người làm chứng:
1. Bà Nguyễn Kim Ng, sinh ngày 19/9/2003, vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của Nguyễn Kim Ng: Bà Trần Thị L, sinh năm 1959, vắng mặt.
2. Bà Thái Thị G, sinh ngày 17/3/2005, vắng mặt.
3. Nguyễn Thanh S, sinh năm 1995, vắng mặt.
4. Nguyễn Văn T, sinh ngày 09/7/2000, vắng mặt.
5. Nguyễn Văn Kh, sinh năm 1996, vắng mặt.
6. Trần Văn M, sinh năm 1997, vắng mặt.
7. Đào Chí Tr, sinh năm 1997, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Thị Thanh Th và Phạm Thị Hạnh Ng làm công nhân chung công ty TNHH H, trong quá trình làm việc giữa Th và Ng phát sinh mâu thuẫn. Ngày 08/7/2019, Th kể lại việc mâu thuẩn với Ng cho anh ruột là Nguyễn Thanh S nghe và hẹn sau khi tan ca sẽ gặp trước cổng công ty H để đánh nhau. Lúc này, Nguyễn Thanh S rủ Nguyễn Văn Kh, Nguyễn Văn T, Đào Chí Tr, Trịnh Văn Th, Trịnh Văn Thn, Trần Văn M Nguyễn Văn H, Nguyễn Lâm V, Nguyễn Hoàng Ph cùng đối tượng T và Tr (không rõ lai lịch địa chỉ) chuẩn bị hung khí là đao, dao tự chế (mã tấu), gậy 3 khúc, cây gỗ đi đến công ty H. Đến khoảng 18 giờ ngày 08/7/2019, khi nhóm của S đang ngồi trong quán cà phê L trước cổng công ty H thì thấy có nhóm thanh niên khoảng 07 người đang đi trên 03 xe mô tô đến dừng trên đường gần công ty H nên nghĩ là nhóm người mâu thuẫn với Th nên nhóm S lấy hung khí ra thì nhóm thanh niên bỏ chạy nên không đánh được. Sau đó nhóm của S cùng với Th quay về phòng trọ nơi S và Th ở tại địa chỉ khu phố B, phường Thuận Giao, thị xã Thuận An (nay là thành phố Thuận An), tỉnh Bình Dương, khi về đến phòng trọ thì S hỏi Th có biết nơi ở của Hạnh Ng ở đâu không thì Th nói là biết và để Th dẫn đến. Lúc này S kêu tất cả mọi người đi theo S đến phòng trọ của Hạnh Ng để đánh dằn mặt cho sợ thì tất cả đồng ý tham gia nhưng Nguyễn Lâm V và Trịnh Văn Th không đi. Lúc này, Đào Chí Tr cầm theo một cây dao tự chế (mã tấu) và điều khiển xe mô tô biển số 36N4-2576 chở S cầm 01 cây gậy 3 khúc và Tr cầm một cây dao tự chế (mã tấu); Trịnh Văn Th cầm theo 01 cây gậy 03 khúc điều khiển xe mô tô biển số 60K8-2397 chở Nguyễn Thị Thanh Th và T cầm theo 01 khúc gỗ tròn dài khoảng 90cm; H điều khiển xe mô tô 65H1-100.51 chở Kh cầm theo 01 cây đao cánh bướm; Nguyễn Hoàng Ph điều khiển xe mô tô kiểu dáng Sirius màu đỏ (không rõ biển số) chở M cầm theo 01 cây kiếm nhật và T (không rõ nhân thân lai lịch) cầm theo 01 cây gậy 03 khúc. Sau đó tất cả đi đến phòng trọ của Hạnh Ng. Khoảng 19 giờ 09 phút cùng ngày tất cả đi đến phòng trọ Hạnh Ng tại địa chỉ 15/3 khu phố B, phường B, thị xã Thuận An (nay là thành phố Thuận An), tỉnh Bình Dương thì dừng xe ngay đầu đường vào dãy trọ rồi S, T, Khánh, Th, Chí T, M, Th, T, Tr cầm theo hung khí đi vào dãy trọ tìm đánh Hạnh Ng, còn H, Ph đứng ngoài giữ xe. Khi cả nhóm vào đến phòng trọ số 19 là nơi ở của Hạnh Ng thì thấy bên trong phòng trọ của bị hại Phạm Nguyên V (em của Hạnh Ng) và Thái Thị G; lúc này Th nói “Phòng này nè, tụi nó nè” thì S, T, Chí Tr, M, Th đi vào trong phòng còn Kh, Thiện, T, Tr đứng bên ngoài phòng trọ. Khi vào trong phòng trọ thì Sang cầm khúc gỗ do T mang theo đánh vào vai, tay trái của V 02 cái làm khúc gỗ gãy đôi. Sau đó Th hỏi V là Hạnh Ng ở đâu thì V trả lời “không biết”, Chí Tr cầm dao mã tấu kề vào cổ của V dọa chém, Th nói “thằng này biết chỗ ở của Hạnh Ng” thì S nói “bắt thằng này đi chỉ chỗ của nó” và M cũng nói “bắt thằng này đi chỉ chỗ của nó” rồi Chí Tr nắm tay trái của V lôi ra khỏi phòng trọ, M đi phía sau dùng tay đẩy V ra khỏi phòng trọ còn Th, T, Kh, Th, Tr, T đi xung quanh cùng đưa V ra nơi để xe ở ngoài đầu đường khu trọ thì T dùng tay phải đẩy V ngồi lên xe do Th điều khiển chở đi cùng Th, T ngồi phía sau, còn M, Ph, T điều khiển xe mô tô đi theo còn Tr nói để quên mã tấu ngoài đầu đường nên kêu S, Chí Tr, Kh, H cùng đi lấy, sau khi lấy xong nhóm Tr, S, Chí Trg, Kh, H không biết nhóm của T, Th, Th, M, Ph, Tình chở V đi đâu nên đi về. Nhóm của T chở V đi tìm Hạnh Ng nhưng không tìm được vì V không chỉ nên nhóm T chở V vào quán cà phê R tại khu phố B phường Thuận Giao, thị xã Thuận An (nay là thành phố Thuận An), tỉnh Bình Dương đưa đến chòi cuối quán rồi tiếp tục hỏi V“Hạnh Ng ở đâu” thì lúc này V mới trả lời Hạnh Ng ở phòng trọ nơi bắt V đi nhưng Hạnh Ng đã đi đâu V không biết. Sau đó nhóm T đưa V về phòng trọ nơi S và Th ở thì gặp nhóm của S, Tr, Chí Tr, Kh, H tại đây. Lúc này đã biết nơi ở của Hạnh Ng nên nhóm S đi về thì Th điều khiển xe mô tô chở V ra đến đèn tín hiệu giao thông giao nhau giữa đường Thủ Khoa H và đường Mỹ Phước Tân Vạn rồi cho V xuống xe đi bộ về. Khi được thả về thì V đi về phòng trọ rồi đi đến Công an phường Bình Chuẩn trình báo sự việc.
- Bản kết luận số 296/GĐPY ngày 15/7/2019 của Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh Bình Dương kết luận Phạm Nguyên V bị tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 00% (không phần trăm) theo bảng tỷ lệ tổn thương cơ thể ban hành theo Thông tư 20/2014/TT-BYT do bộ y tế ban hành.
- Bản kết luận giám định về độ tuổi số 95/C09B ngày 28/11/2019 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tại thời điểm giám định (tháng 11/2019) Phạm Nguyên V có độ tuổi từ 15 năm 04 tháng đến 15 năm 10 tháng.
- Bản kết luận giám định về độ tuổi số 94/C09B ngày 28/11/2019 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tại thời điểm giám định (tháng 11/2019) Nguyễn Thị Thanh Th có độ tuổi từ 15 năm 04 tháng đến 15 năm 10 tháng.
Như vậy Nguyễn Thị Thanh Th tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội ngày 08/7/2019 thì Th chưa đủ 16 tuổi là chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự về tội nghiêm trọng.
- Bản kết luận giam định về độ tuổi số 93/C09B ngày 28/11/2019 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tại thời điểm giám định (tháng 11/2019) Trịnh Văn Th có độ tuổi từ 16 năm đến 16 năm 06 tháng. Như vậy Trịnh Văn Th tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội ngày 08/7/2019 thì Th chưa đủ 16 tuổi là chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự về tội nghiêm trọng Đối với Nguyễn Lâm V, Trịnh Văn Th, Nguyễn Văn H không tham gia bắt người trái pháp luật là Phạm Nguyên V nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An không khởi tố. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với Nguyễn Thị Thanh Th, Trịnh Văn Th, Nguyễn Lâm V, Trịnh Văn Th, Nguyễn Văn H về hành vi Gây rối trật tự công cộng.
Bị cáo Nguyễn Hoàng Ph ngày 08/7/2019 thực hiện hành vi Bắt người trái pháp luật rồi bỏ trốn, sau đó bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An ra Quyết định khởi tố bị can và truy nã đối với Nguyễn Hoàng Ph, đến ngày 31/5/2021 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thuận An bắt truy nã.
Đối với tên Tr và T hiện chưa xác định được họ tên nhân thân, lai lịch địa chỉ của Trung và Tình do đó khi nào Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An xác định được sẽ điều tra làm rõ xử lý sau.
Cáo trạng số 105/QĐ/KSĐT ngày 09/3/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng Ph về tội ‘‘Bắt người trái pháp luật’’ theo quy định tại Điểm e Khoản 2 Điều 157 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An tham gia phiên tòa trình bày quan điểm: Vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng, xác định bị cáo Nguyễn Hoàng Ph phạm tội ‘‘bắt người trái pháp luật’’ theo quy định tại Điểm e Khoản 2 Điều 157 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo và áp dụng:
+ Điểm e Khoản 2 Điều 157; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng Ph mức hình phạt từ 3 năm tù đến 3 năm 06 tháng tù.
- Đối với Nguyễn Thanh S, Nguyễn Văn Kh, Nguyễn Văn T đã được xét xử xong về tội Bắt người trái pháp luật theo Bản án số 130/2020/HSST ngày 25/5/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thuận An nên không đề cập xử lý.
- Đối với Trần Văn M, Đào Chí Tr đã được xét xử xong về tội Bắt người trái pháp luật theo Bản án số 178/2021/HSST ngày 30/6/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thuận An nên không đề cập xử lý.
- Vật chứng và trách nhiệm dân sự trong vụ án đã được xử lý xong theo Bản án số 130/2020/HSST ngày 25/5/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thuận An nên không đề nghị xử lý.
- Bị cáo Nguyễn Hoàng Ph trình bày ý kiến: Thống nhất với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đã truy tố, thống nhất với mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị. Xin Hội đồng xét xử xử cho bị cáo mức án nhẹ nhất của đại diện Viện kiểm sát đề nghị để sớm trở về làm người công dân có ích cho xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Khoảng 19 giờ 09 phút ngày 08 tháng 7 năm 2019 tại phòng trọ số 19, số nhà 15/3 khu phố B, phường Bình Thuận, thị xã Thuận An (nay là thành phố Thuận An), tỉnh Bình Dương bị cáo Nguyễn Hoàng Ph đã cùng với Nguyễn Thanh S, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Kh, Nguyễn Thị Thanh Th, Trần Văn Th, Trần Văn M, Đào Chí Tr và đối tượng tên T, Tr (không rõ nhân thân, lai lịch) có hành vi sử dụng hung khí là dao tự chế, cây gậy gỗ, gậy 3 khúc đánh và đe đọa để bắt bị hại Phạm Nguyên V đưa ra khỏi phòng trọ lên xe mô tô chở đi tìm bà Phạm Thị Hạnh Ng là chị của bị hại Phạm Nguyên V để đánh dằn mặt. Thời điểm các bị cáo thực hiện hành vi bắt bị hại Phạm Nguyên V trái pháp luật thì bị hại V chưa đủ 18 tuổi (15 tuổi). Hành vi của bị cáo Nguyễn Hoàng Ph đã đủ yếu tố cấu thành tội “Bắt người trái pháp luật”, thuộc tình tiết định khung là “đối với người dưới 18 tuổi” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm e Khoản 2 Điều 157 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng Ph về tội danh và khung hình phạt nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của của bị hại, gây mất an ninh trật tự tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị xử lý nhưng cố ý thực hiện hành vi phạm tội, bất chấp hậu quả gây ra cho bị hại, bất chấp pháp luật. Do vậy, cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng với tính chất hành vi của các bị cáo để có tác dụng răn đe các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Về nhân thân: Bị cáo có nhân xấu: Ngày 10/6/2015 Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Thuận An, tỉnh Bình Dương xử 04 năm 06 tháng tù về tội Cướp tài sản theo Bản án số 198/2015/HSST ngày 04/6/2015, chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/02/2018.
- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 10/6/2015 Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Thuận An, tỉnh Bình Dương xử 04 năm 06 tháng tù về tội Cướp tài sản theo Bản án số 198/2015/HSST ngày 04/6/2015, chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/02/2018 chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội nên thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 - Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được xem xét áp dụng Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[4] Đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa đề nghị xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng Ph mức hình phạt từ 3 năm tù đến 3 năm 06 tháng tù là phù hợp nên chấp nhận.
[5] Đối với Nguyễn Thanh S, Nguyễn Văn Kh, Nguyễn Văn T đã được xét xử xong về tội Bắt người trái pháp luật theo Bản án số 130/2020/HSST ngày 25/5/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thuận An nên không đề cập xử lý.
[6] Đối với Trần Văn M, Đào Chí Tr đã được xét xử xong về tội Bắt người trái pháp luật theo Bản án số 178/2021/HSST ngày 30/6/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thuận An nên không đề cập xử lý.
[7] Đối với hành vi của Nguyễn Thị Thanh Th, Trần Văn Th, Nguyễn Lâm V, Trịnh Văn Th, Nguyễn Văn H đã được xem xét tại Bản án số 130/2020/HSST ngày 25/5/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thuận An nên không đề cập xử lý.
[8] Trách nhiệm dân sự trong vụ án và xử lý vật chứng đã được xử lý xong theo Bản án số 130/2020/HSST ngày 25/5/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thuận An nên không đề cập xử lý.
[9] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hoàng Ph phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
+ Điểm e Khoản 2 Điều 157; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;
+ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, 1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng Phương phạm tội Bắt người trái pháp luật.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng Ph 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 31/5/2021.
2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hoàng Ph phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.
Bản án về tội bắt người trái pháp luật số 407/2021/HS-ST
Số hiệu: | 407/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/12/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về