TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 21/2022/HSCTN-PT NGÀY 20/04/2022 VỀ TỘI BẮT, GIỮ NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT
Ngày 20 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 17/2022/TLPT-HSCTN ngày 25 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo Võ Thị Ngọc P do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 41/2022/HS-ST ngày 28 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân thị xã H, tỉnh Bình Định.
Bị cáo có kháng cáo:
Võ Thị Ngọc P, sinh ngày 09/9/1980 tại thị xã H, tỉnh Bình Định; nơi cư trú: Thôn K, xã H, thị xã H, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Võ Tấn M (chết) và bà Phạm Thị N, sinh năm: 1952; chồng: Nguyễn Văn L, sinh năm: 1980; con: Có 03 con, lớn nhất sinh năm 2002 và nhỏ nhất sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 03/8/2020 đến ngày 12/8/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú thay thế biện pháp tạm giữ. Có mặt.
Ngoài ra, còn có các bị cáo Đỗ Anh P1, Trần Văn P2 và Nguyễn Dũ H1 không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Đầu tháng 3/2019, bà Nguyễn Thị T1 làm ăn thua lỗ nên mất khả năng trả nợ và đóng tiền hụi cho Võ Thị Ngọc P; bà T1 có đến gặp P nhận nợ và hẹn khi nào có tiền sẽ trả. Ngày 11/5/2020, P nhờ người đến đòi nợ và đánh bà T1 nên bà T1 vào thành phố Q làm thuê. Ngày 31/7/2020, P nhờ Đỗ Anh P1 đòi nợ và hứa chia cho P1 ½ số tiền nợ của bà T1, P1 đồng ý.
Khoảng 08 giờ ngày 03/8/2020, Đỗ Anh P1, Trần Văn P2, Nguyễn Dũ H1, Phạm Đoàn V, Dương Anh K, Đoàn Huỳnh T2 cùng uống cafe ở Chợ Gò, huyện T. P1 rủ cả nhóm đến thị xã H chơi và lấy nợ của người tên V, cả nhóm đồng ý. P1 điện thoại cho P nói sắp ra thị xã H chơi. Sau đó, K gặp Lê Văn T3 ở số 1222 đường H, thành phố Q thuê xe ô tô biển kiểm soát 77A-159.XX và khoảng 10 giờ cùng ngày, H1 điều khiển xe ô tô trên chở cả nhóm ra thị xã H. Khi đến nhà của P ở thôn K, xã H, thị xã H, tỉnh Bình Định, P1, P2, H1 vào nhà còn V, T2, K ở trong xe ô tô. P thỏa thuận viết giấy ủy quyền cho P1 để đòi nợ bà T1 và khởi xưởng việc bắt con trai của bà T1 là anh Nguyễn Ngọc Nhật Q, sinh ngày 04/11/2003 để buộc bà T1 trả nợ. Sau đó, nhóm P1 đến quán cafe Hương Quỳnh ở khu phố T, phường H, thị xã H để nghỉ trưa.
Khoảng 14 giờ cùng ngày, tại Ủy ban nhân dân xã H, thị xã H, P, P1, P2 làm thủ tục chứng thực giấy ủy quyền. P nói cho P1, P2 biết anh Q đang ở quán cafe Tám P thuộc thôn K, xã H. P điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 77C1-057.XX chở P2 đi trước, P1 điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 77A-159.XX đi sau. Khi đến nơi, P chỉ anh Q cho P1, P2 biết và nói anh Q đi cùng nhưng anh Q không chịu đi. P2 bảo anh Q ra ngoài sân nói chuyện nhưng anh Q vẫn ngồi im. Khi P1 lớn tiếng quát “Bốc cái đầu nó ra đây” thì anh Q đứng dậy đi theo P1, P2. Khi P2 đẩy anh Q lên xe ô tô biển kiểm soát 77A-159.XX thì anh Q dùng tay đẩy thành xe ô tô chống lại nhưng không được. Cùng lúc này, H1 gọi điện thoại nhưng P1 không nghe máy; H1 nhắn tin cho P1 “Bắt cóc không được đâu, bắt bà đó là có tiền chứ bắt thằng đó được gì”. Sau đó, P1 điều khiển xe ô tô chở P2 và anh Q về quán cafe Hương Quỳnh, P điều khiển xe mô tô đi sau.
Tại quán cafe Hương Quỳnh, V và H1 nằm trên võng; T2 và K chơi bài; P1 và P2 dẫn anh Q vào chòi bán cafe phía sau. Một lúc sau, P2 đến bàn anh Q đang ngồi, nói nội dung chở anh Q vào Phú Tài thuộc thành phố Q lấy tiền. P1 mở máy điện thoại ghi âm và buộc anh Q nói anh Q tự nguyện đi theo, không bị ai ép buộc. Anh Q bị đưa lên xe ô tô biển kiểm soát 77A-159.XX, đặt ngồi băng ghế cuối. H1 ngồi ở vị trí lái xe, điều khiển xe ô tô chở cả nhóm về Q. Khi đi đến đoạn đường thuộc khu phố T, phường H, P điện thoại báo sự việc đã bị P1 hiện và nói P1 quay lại xã H. H1 điều khiển xe ô tô quay về. Khi đến khu phố V, phường H thì bị lực lượng chức năng P1 hiện đưa về trụ sở Công an phường H.
Gia đình anh Q và anh Q yêu cầu các bị cáo bồi thường tổn thất tinh thần cho anh Q số tiền 20.000.000 đồng. Các bị cáo đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã H số tiền 10.000.000 đồng để bồi thường thiệt hại.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 141/2022/HS-ST ngày 28/01/2022, Tòa án nhân dân thị xã H, tỉnh Bình Định đã áp dụng điểm e khoản 2 Điều 157; các điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 54; Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Võ Thị Ngọc P 18 tháng tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xử phạt các bị cáo Đỗ Anh P1 và Trần Văn P2 18 tháng tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”; xử phạt bị cáo Nguyễn Dũ H1 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội “Giữ người trái pháp luật”; quyết định về phần bồi thường thiệt hại, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 10/02/2022, bị cáo Võ Thị Ngọc P kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa, bị cáo Võ Thị Ngọc P giữ nguyên kháng cáo và bổ sung yêu cầu kháng cáo là xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Võ Thị Ngọc P, sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo, giảm cho bị cáo 06 tháng tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với các chứng cứ khác nên có đủ cơ sở xác định:
Do bà Nguyễn Thị T1 làm ăn thua lỗ, mất khả năng trả nợ, Võ Thị Ngọc P đòi nợ nhiều lần nhưng bà T1 không trả nên P đã nhờ Đỗ Anh P1 đòi nợ và hứa chia cho P1 ½ số tiền bà T1 nợ P.
Chiều ngày 03/8/2020, sau khi thỏa thuận viết giấy ủy quyền cho P1 để đòi nợ bà T1, P khởi xưởng việc bắt con trai của bà T1 là anh Nguyễn Ngọc Nhật Q, sinh ngày 04/11/2003 để buộc bà T1 trả nợ. Tại quán cafe Tám P thuộc thôn K, xã H, các bị cáo Võ Thị Ngọc P, Đỗ Anh P1, Trần Văn P2 đã có hành vi khống chế anh Q đưa lên xe ô tô biển kiểm soát 77A-159.XX với mục đích chở anh Q vào Phú Tài thuộc thành phố Q tìm bà T1 lấy tiền. Sau đó, Nguyễn Dũ H1 đã điều khiển xe ô tô nói trên chở cả nhóm cùng với anh Q về Quy Nhơn. Trên đường đi, P điện thoại báo sự việc đã bị P1 hiện và nói P1 quay lại, H1 điều khiển xe ô tô quay về thì bị lực lượng chức năng P1 hiện đưa về trụ sở Công an phường H.
Do đó, Bản án hình sự sơ thẩm số 141/2022/HS-ST ngày 28/01/2022 của Tòa án nhân dân thị xã H đã xét xử bị cáo Võ Thị Ngọc P về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” theo điểm e khoản 2 Điều 157 của Bộ luật Hình sự là đúng quy định của pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo của bị cáo Võ Thị Ngọc P, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:
Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền tự do của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương.
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tự nguyện bồi thường một phần thiệt hại cho bị hại và hành vi phạm tội của bị cáo cũng có phần lỗi của bị hại quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Căn cứ tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo Võ Thị Ngọc P 18 tháng tù là nghiêm khắc.
Theo quy định tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo thì bị cáo Võ Thị Ngọc P không đủ điều kiện được hưởng án treo.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử P thẩm chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Võ Thị Ngọc P và không chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Võ Thị Ngọc P, chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định, sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo Võ Thị Ngọc P cũng đủ có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.
[3] Theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường Vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì bị cáo Võ Thị Ngọc P không phải chịu.
[4] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Thị Ngọc P. Sửa bản án sơ thẩm.
1. Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 157; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Võ Thị Ngọc P 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 03/8/2020 đến ngày 12/8/2020.
2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Võ Thị Ngọc P không phải chịu.
3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội bắt, giữ người trái pháp luật số 21/2022/HS-PT
Số hiệu: | 21/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/04/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về