Bản án 19/2024/HNGĐ-ST về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 19/2024/HNGĐ-ST NGÀY 06/02/2024 VỀ THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU LY HÔN

Ngày 06 tháng 02 năm 2024, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân thành phố T, tỉnh T tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 684/2023/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 11 năm 2023 về việc : “ Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2024/QĐST- HNGĐ, ngày 02 tháng 01 năm 2024 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Dương Quốc K, sinh năm 1985 HKTT: Tổ 03, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố T, tỉnh T Bị đơn: Chị Trần Thị Phương T, sinh năm 1989 HKTT: Tổ 16, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố T, tỉnh T (Có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn anh Dương Quốc K trình bày: Anh và chị Trần Thị Phương T kết hôn năm 2012 , quá trình trình chung sống có 01 con chung: Dương Trần H, sinh ngày 20/4/2012. Trong cuộc sống vợ chồng do có nhiều mâu thuẫn, không hòa hợp nên anh và chị T đã quyết định ly hôn. Tại Quyết định số 146 ngày 26/5/2013 của Tòa án nhân dân thành phố T đã Quyết định công nhận thuận tình ly hôn giữa anh và chị T. Về con chung, giao con chung Dương Trần H cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn, con chung về ở cùng với chị T, tuy nhiên sau khi ở với mẹ được khoảng thời gian thì chị T không có công việc ổn định, không có nơi ở ổn định, thường xuyên pH thay đổi chỗ ở do chị T nợ nần nhiều, có dư luận xấu nên việc chăm sóc, giáo dục con chung không được chu đáo và ảnh hưởng đến việc học hành của con chung. Anh cũng đã nhiều lần đề nghị với chị T được trực tiếp nuôi con chung, nhưng chị T không đồng ý. Hiện nay chị T đi khỏi địa phương và gửi con lại cho anh nuôi thỉnh thoảng mới gọi điện về hỏi thăm tình hình của con. Nay anh xác định điều kiện, hoàn cảnh của chị T do nợ nần, chỗ ở không ổn định không có khả năng để nuôi dạy, chăm sóc con chung chu đáo được. Cháu H đã ở cùng với anh từ năm đầu năm 2023 đến nay, cháu H cũng có nguyện vọng được ở với bố và bà nội, không muốn tiếp tục ở với mẹ nữa. Để đảm bảo quyền lợi cũng như nguyện vọng của con, anh yêu cầu Tòa án giải quyết giao con Dương Trần H cho anh trực tiếp nuôi dưỡng. Về phần cấp dưỡng nuôi con anh không yêu cầu chị T pH cấp dưỡng nuôi con cùng anh và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình Tòa án giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án và triệu tập chị T đến Tòa án để giải quyết và yêu cầu chị T viết bản tự khai, tuy nhiên chị T không đến, Tòa án đã liên lạc cho chị T qua điện thoại, chị xác nhận đã nhận được thông báo thụ lý vụ án nhưng chị nói sẽ không đến Tòa án để giải quyết, việc anh K đề nghị được nuôi cháu Dương Trần H, ý kiến của chị vẫn đề nghị được nuôi con, tuy nhiên chị cũng xác định do đang đi làm xa không có nơi ở ổn định, hiện cháu H chị đã gửi về cho anh K và bà nội nuôi dưỡng hộ, có điều kiện chị sẽ ra đón cháu . Tòa án xác minh nơi cư trú của chị T để tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng tại nơi cư trú, Công an phường Hoàng Văn Thụ cung cấp chị T có đăng ký thường tại tổ 16, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố T, tuy nhiên không thường xuyên có mặt tại địa phương. Tòa án đã tiến hành niêm yết, tống đạt các văn bản tố tụng cho chị T để đảm bảo quyền và nghĩa vụ cho chị T tham gia tố tụng tại Tòa án, tuy nhiên chị T vẫn vắng mặt không lý do. Do các đương sự đã không cùng nhau hòa giải và thỏa thuận được các nội dung để giải quyết vụ án. Vì vậy, vụ án được đưa ra xét xử công khai ngày hôm nay.

Tại phiên tòa anh K vẫn giữ quan điểm yêu cầu được nuôi con Dương Trần H và đây cũng là nguyện vọng của cháu H muốn được ở cùng bố.

Chị T đã được tống đạt hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa nên không có ý kiến đề nghị gì.

Trong phần tranh luận vị đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký phiên tòa, Hội đồng xét xử tiến hành tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng quy định; Bị đơn vắng mặt và đã được tống đạt hợp lệ đến lần thứ hai, nên căn cứ khoản 2 Điều 227, đề nghị xét xử vắng mặt bị đơn tại phiên tòa.

Về nội dung vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, giao con Dương Trần H cho anh Dương Quốc K trực tiếp nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con anh K không yêu cầu nên không xem xét.

Về án phí: Anh K pH chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Đây là tranh chấp về Hôn nhân gia đình thuộc Điều 28 và Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố T.

Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng như thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập phiên tòa cho chị T theo đúng quy định tại Điều 177 Bộ luật tố tụng Dân sự. Chị T đã được thông báo và được tống đạt các văn bản tố tụng, đã ký nhận vào thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập đương sự của Tòa án tuy nhiên không đến Tòa án để giải quyết, nên Tòa án không tiến hành tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cho các đương sự tại Tòa án được. Chị T không viết bản tự khai, vắng mặt tại Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng cho chị T Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa, tuy nhiên chị T vẫn vắng mặt và không có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa. Do vậy Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt đối với chị T.

[2]. Về nội dung: Anh Dương Quốc K và chị Trần Thị Phương T kết hôn năm 2012, Trong thời kỳ hôn nhân, 01 con chung là Dương Trần H, sinh ngày 20/4/2013. Trong cuộc sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, không hòa hợp nên anh K và chị T đã ly hôn. Tại Quyết định số 149 ngày 25/5/2015 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T đã công nhận thuận tình ly hôn giữa anh K và chị T. Về con chung, giao con chung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn, con chung về ở cùng với chị T, tuy nhiên sau khi ở được khoảng thời gian anh K trình bày chị T do có nợ nần nhiều, thường xuyên pH thay đổi chỗ ở nên không có nơi ở cố định, không có thu nhập ổn định. Hiện tại do chị T pH đi làm ăn xa thỉnh thoảng mới về nên đã gửi con cho anh nuôi từ đầu năm 2023 đến nay. Con chung Dương Trần H đã về ở cùng với anh K và có nguyện vọng được bố trực tiếp nuôi dưỡng. Nay anh K xác định, bản thân anh có công việc làm ổn định, thu nhập trên 12 triệu đồng/tháng, có nơi ở ổn định đủ điều kiện để chăm sóc, giáo dục con tốt hơn, anh K yêu cầu được trực tiếp được nuôi con Dương Trần H, cháu H cũng có nguyện vọng được ở cùng bố. Tại phiên tòa do chị T vắng mặt không lý do nên không có ý kiến đề nghị gì, quá trình xác minh tại địa phương cho thấy chị T có đăng ký thường trú tại tổ 16, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố T nhưng hiện tại chị T không còn sinh sống thường xuyên ở địa chỉ trên. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung và theo nguyện vọng của con, về thực tế cháu H đã về ở với anh K từ năm 2023 đến nay và theo nguyện vọng của cháu muốn được ở cùng với bố, theo quy định của Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử thấy xét điều kiện, thu nhập kinh tế, công việc và nơi ở của hai bên, anh K có thu nhập ổn định, có nơi ở cố định và công việc phù hợp để đảm bảo quyền lợi của con khi giao con cho anh K trực tiếp nuôi dưỡng. Tại phiên tòa cháu H tha thiết được ở cùng với anh K và bà nội vì cháu nói ở với bố điều kiện tốt và đảm bảo cho việc học hành của cháu tốt hơn. Đối với chị T, không có nơi ở ổn định, hiện tại đi làm ăn xa thỉnh thoảng mới về, chị cũng đã giao con cho anh K nuôi dưỡng từ năm 2023 đến nay. Hội đồng xét xử thấy việc giao con chưa thành niên cho ai trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc pH đảm bảo quyền, lợi ích, đảm bảo điều kiện sinh sống và nguyện vọng của con chưa thành niên, do vậy cần thiết giao con Dương Trần H, sinh ngày 20/4/2013 cho anh K trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác là phù hợp với thực tế và phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:

“ 1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ chồng thoả thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ và quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thoả thuận được thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì pH xem xét nguyện vọng của con”.

...........................

[3]. Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Xét thấy chị T vắng mặt, anh K không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[4]. Về án phí: Anh K chịu toàn bộ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Dương Quốc K về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.

2. Về con chung: Giao con chung Dương Trần H, sinh ngày 20/4/2013 cho anh Dương Quốc K được trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác. Chị T có quyền, nghĩa vụ thăm nom và chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

Khi xét thấy cần thiết hoặc do điều kiện sống có sự thay đổi, vợ chồng có thỏa thuận khác phù hợp với quy định pháp luật và vì lợi ích của con chung, các bên có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.

3. Về mức cấp dưỡng nuôi con: Do anh K không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Anh K pH chịu 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm nộp vào Ngân sách nhà nước, được trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0002185 ngày 01/11/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T.

5. Về quyền kháng cáo: Anh K có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

71
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 19/2024/HNGĐ-ST về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn

Số hiệu:19/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;