TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ QUAO, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 30/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/05/2022 VỀ LY HÔN VÀ YÊU CẦU NUÔI CON
Ngày 12 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 104/2022/TLST- HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2022, về việc “Xin ly hôn và xin nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày 27 tháng 4 năm 2022; giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Phạm Xuân L, sinh năm 1995. (Có mặt) Địa chỉ: ấp Th, xã H, Thành Phố V, tỉnh Hậu Giang.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Tấn Đ, sinh năm 1984. (Có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: ấp 3, xã V, huyện G, tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn chị Phạm Xuân L trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Vào năm 2012 Chị Phạm Xuân L và anh Nguyễn Tấn Đ quen biết tìm hiểu và quyết định kết hôn với nhau, hôn nhân tự nguyện có tổ chức đám cưới, nhưng đến ngày 25/9/2013 mới đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Vĩnh Hòa Hưng Nam, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang. Sau khi kết hôn, chị L và anh Đ sống bên gia đình anh Đ, cuộc sống hạnh phúc được tám năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do hai người không hợp nhau, bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung trong cuộc sống nên thường xuyên cãi nhau, hiện nay anh Đ đã bỏ đi làm ăn xa và vợ chồng đã ly thân từ tháng 02 năm 2020 đến nay. Chị L xét thấy không thể hàn gắn hôn nhân lại được vì chị không còn quan tâm chăm sóc, không còn tình cảm với anh Đ nên chị yêu cầu xin ly hôn với anh Đ.
Về con chung: Thời gian chung sống, chị và anh Đ có hai người con chung là cháu Nguyễn Gia K, sinh ngày 10/10/2013 và cháu Nguyễn Tấn Kh, sinh ngày 15/3/2019, từ khi ly thân đến nay cháu Kh do chị L nuôi dưỡng, chị đồng ý giao cháu K cho anh Đ nuôi dưỡng, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Chị L xác định không có và không có yêu cầu giải quyết.
Bị đơn anh Nguyễn Tấn Đ có đơn xin vắng mặt, theo các lời khai có trong hồ sơ anh Đ trình bày:
Anh Đ thống nhất với lời trình bày của chị L về thời gian kết hôn, các nguyên nhân phát sinh mẫu thuẫn vợ chồng, ly thân, về con chung, tài sản chung nợ chung của vợ chồng, tuy nhiên anh cho rằng việc mẫu thuẫn vợ chồng không có gì lớn mà do mâu thuẫn do hai bên gia đình dẫn đến mẫu thuẫn vợ chồng thường xuyên cãi nhau.
Nếu chị L vẫn cương quyết ly hôn thì anh Đ có ý kiến như sau:
- Về hôn nhân: Anh Đ không đồng ý ly hôn với Chị Phạm Xuân L. Vì còn thương vợ thương con.
- Về con chung: anh Đ xin nuôi hai cháu Nguyễn Gia K và Nguyễn Tấn Kh, không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết
Đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, người tham gia tố tụng; việc thu thập tài liệu, chứng cứ, cấp tống đạt văn bản tố tụng cho người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát đúng quy định.
Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử, Thư ký chấp hành đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cho chị Phạm Xuân L được ly hôn với anh Nguyễn Tấn Đ;
Về con chung: giao cháu Nguyễn Tấn Kh, sinh ngày 15/3/2019 cho chị Phạm Xuân L chăm nuôi dưỡng; giao cháu Nguyễn Gia K, sinh ngày 10/10/2013 cho anh Nguyễn Tấn Đ chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị L và anh Đ không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị không xem xét.
Về tài sản chung và nợ chung chị L anh Đ xác định không có và không yêu cầu tòa án giải quyết nên không đề nghị xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện các chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Tấn Đ có hộ khẩu thường trú tại ấp 3, xã Vĩnh Hòa Hưng Nam, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang, theo quy định tại Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang.
Về xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án: Quá trình giải quyết vụ án, chị Phạm Xuân L yêu cầu xin ly hôn với anh Nguyễn Tấn Đ và xin nuôi con. Từ đó có đủ căn cứ để xác định quan hệ “Ly hôn và yêu cầu nuôi con” được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Đối với bị đơn Nguyễn Tấn Đ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng theo khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh Đ.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh Đ chung sống với nhau từ năm 2012, việc chung sống trên cơ sở là hoàn toàn tự nguyện, tự do tìm hiểu có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương và được hai bên gia đình đồng ý, đến năm 2013 thực hiện đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân xã Vĩnh Hòa Hưng Nam huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang theo giấy chứng nhận kết hôn số 173/2013 ngày 25/9/2013, theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, hôn nhân của anh chị là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.
Xét yêu cầu ly hôn của chị Phạm Xuân L xin được ly hôn với anh Nguyễn Tấn Đ với lý do trong cuộc sống thường xuyên xãy ra bất hòa, thiếu sự quan tâm tin tưởng lẫn nhau dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày một rạn nứt, thường xuyên mâu thuẫn từ năm 2020 đến nay, đời sống hôn nhân không có hạnh phúc, nay chị L kiên quyết xin ly hôn với anh Đ, trong quá trình giải quyết vụ án anh Đ không đồng ý ly hôn với chị L, xét thấy chị L không còn yêu thương, quan tâm đến anh Đ nữa, vợ chồng đã sống ly thân một thời gian dài từ năm 2020 đến nay, mỗi người hiện nay đã có cuộc sống riêng. Như vậy cuộc sống hôn nhân của vợ chồng anh chị đã không thể hàn gắn được nữa, tình cảm vợ chồng không còn, sự mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó áp dụng khoản 1 Điều 51, Điều 56 Luật HNGĐ 2014 xử cho chị Phạm Xuân L được ly hôn với anh Nguyễn Tấn Đ là có cơ sở và đúng pháp luật.
[3] Về con chung: Chị Phạm Xuân L và anh Nguyễn Tấn Đ xác định chị và anh có hai người con chung là cháu Nguyễn Gia K, sinh ngày 10/10/2013, cháu Nguyễn Tấn Kh, sinh ngày 15/3/2019. Khi ly hôn chị L xin được nuôi cháu Kh, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con, đồng ý giao cháu K cho anh Đ nuôi dưỡng.
Xét yêu cầu nuôi con của chị L HĐXX xét thấy từ khi vợ chồng ly thân đến nay, cháu Kh do chị L nuôi dưỡng, cháu K do anh Đ nuôi dưỡng, hiện nay các cháu vẫn phát triển bình thường về mọi mặt, mặt khác hiện nay cháu Kh còn nhỏ cần được sự chăm sóc của người mẹ. Do đó để bảo đảm sự phát triển của con chung, cần giao cháu Kh cho chị L tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp.
Đối với yêu cầu của anh Đ xin nuôi cả hai cháu K và cháu Kh không yêu cầu chị L cấp dưỡng, nhưng anh lại không đưa ra được chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình, hiện nay anh đi làm xa không có ở địa phương thường xuyên, không thể đảm bảo nuôi cả hai con nên yêu cầu của anh không được chấp nhận. Xét thấy hiện nay cháu K do anh Đ chăm sóc, nuôi dưỡng và cháu K có nguyên vọng sống với anh Đ, Do đó Hội đồng xét xử tôn trọng theo nguyện vọng của cháu K theo quy tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. HĐXX giao cháu Nguyễn Gia K cho anh Đ chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp.
Chị L và anh Đ không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị L và anh Đ xác định vợ chồng không có tài sản chung và không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó HĐXX không xem xét.
[5] Xét ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ phù hợp với quy định pháp luật nên HĐXX chấp nhận.
[6] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Là 300.000đ buộc chị Phạm Xuân L phải chịu.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 91; khoản 1 Điều 228; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 58; Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Phạm Xuân L về việc xin ly hôn với anh Nguyễn Tấn Đ.
1. Về hôn nhân: Xử cho chị Phạm Xuân L ly hôn với anh Nguyễn Tấn Đ.
2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Tấn Kh, sinh ngày 15/3/2019 cho chị Phạm Xuân L chăm sóc nuôi dưỡng, giao cháu Nguyễn Gia K, sinh ngày 10/10/2013 cho anh Nguyễn Tấn Đ chăm sóc nuôi dưỡng, cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, chị L anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con, chị L anh Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Anh chị có quyền làm đơn yêu thay đổi quyền nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
3. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Buộc chị Phạm Xuân L nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 0006735, ngày 09/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang.
4. Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định.
Trường hợp bản án, quyết định thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7,7a,7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn và yêu cầu nuôi con số 30/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 30/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Gò Quao - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 12/05/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về