TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 37/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/04/2022 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 14 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Tân Uyên tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 18/2022/TLST-HNGĐ ngày 18/01/2022 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 28/3/2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Đỗ Bá Ch, sinh năm 1989, thường trú: thôn Â, xã Th, huyện N, tỉnh Th; địa chỉ liên hệ: số 06, đường Ng, khu phố 4, phường Q, thành phố B, tỉnh Đ, có đơn xin vắng mặt;
- Bị đơn: Bà Trần Thị Ngọc Th, sinh năm 1988, thường trú: ấp Kh, xã H, huyện C, tỉnh T; tạm trú: đường Kh, khu phố B, phường Kh, thị xã T, tỉnh B; có đơn xin vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Nguyên đơn ông Đỗ Bá Ch trình bày:
Sau thời gian tìm hiểu, ông Đỗ Bá Ch và bà Trần Thị Ngọc Th tiến tới hôn nhân và đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện C, tỉnh T theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 4, ngày 07/01/2013. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm cuộc sống thường xuyên cãi vả, tình trạng gia đình luôn căng thẳng. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông Ch yêu cầu được ly hôn với bà Th.
Vợ chồng ông Ch, bà Th có 01 con chung là Đỗ Ngọc Ý T, sinh ngày 06/10/2013. Ông Ch yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con và không yêu cầu bà Th cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung, ông Ch không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Vì lý do bận công việc, không có thời gian tham gia tố tụng nên ông Ch có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt.
- Bị đơn bà Trần Thị Ngọc Th trình bày:
Bà Th thống nhất với trình bày của ông Ch về quan hệ hôn nhân và con chung. Do công việc, ông Ch thường xuyên sinh sống và làm việc ở tỉnh Thanh Hóa; không còn chung sống với bà Th từ năm 2016. Hiện tại tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống gia đình không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, không còn khả năng hàn gắn. Bà Th đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Ch, đồng ý ly hôn với ông Ch và giao con chung tên Đỗ Ngọc Ý T, sinh ngày 06/10/2013 cho ông Ch trực tiếp nuôi dưỡng, vì thực tế hiện nay cháu Ý T đang sống chung với ông Ch tại Thanh Hóa và cháu Ý T cũng có nguyện vọng sống chung với ông Ch. Bà Th không yêu cầu Tòa án giải quyết tài sản chung, nợ chung. Vì lý do bận công việc, không có thời gian tham gia tố tụng nên bà Th có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt.
- Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa:
Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán đã tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Đối với việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định. Đại diện Viện kiểm sát không có kiến nghị để khắc phục vi phạm tố tụng. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đỗ Bá Ch.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn ông Đỗ Bá Ch, bị đơn bà Trần Thị Ngọc Th có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành thủ tục xét xử vắng mặt những người tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 227 và 238 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Ông Đỗ Bá Ch và bà Trần Thị Ngọc Th có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện C, tỉnh T theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 4, ngày 07/01/2013 nên đây là hôn nhân hợp pháp. Theo ông Ch trình bày, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, vợ chồng không còn tình cảm. Ông Ch, bà Th không sống chung với nhau từ năm 2016, vợ chồng không thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, bỏ mặc muốn sống ra sao thì sống. Mặc dù biết ông Ch xin ly hôn nhưng bà Th không có mong muốn hàn gắn tình cảm, đồng ý ly hôn và giao con cho ông Ch trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, điều này đã cho thấy bà Th cũng không quan tâm đến cuộc hôn nhân với ông Ch, vợ chồng không còn yêu thương, chăm sóc nhau, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của ông Ch là có cơ sở để chấp nhận.
[3] Về con chung: Trong quá trình chung sống vợ chồng ông Ch, bà Th có 01 con chung là Đỗ Ngọc Ý T, sinh ngày 06/10/2013. Ông Ch yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu Ý T. Xét thấy, cháu Ý T hiện nay đang sống với ông Ch nên cần giữ ổn định về chỗ ở để không ảnh hưởng tâm lý của trẻ. Cháu Ý T cũng có nguyện vọng được sống với ông Ch, bà Th cũng đồng ý giao cháu Ý T cho ông Ch nuôi dưỡng, giáo dục con nên Hội đồng xét xử chấp nhận giao cháu Ý T cho ông Ch nuôi dưỡng.
Ông Ch không yêu cầu bà Th cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử ghi nhận. Trường hợp sau này ông Ch khó khăn hoặc nhu cầu cấp dưỡng của các cháu có sự thay đổi thì ông Ch có quyền yêu cầu bà Trần Thị Ngọc Th cấp dưỡng nuôi con trong một vụ án khác.
[4] Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[6] Về án phí sơ thẩm: Ông Đỗ Bá Ch phải chịu theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 269, Điều 271, Điều 273 và Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đỗ Bá Ch về việc tranh chấp ly hôn và nuôi con với bị đơn bà Trần Thị Ngọc Th.
- Về quan hệ hôn nhân: Ông Đỗ Bá Ch được ly hôn với bà Trần Thị Ngọc Th.
- Về con chung: Giao cháu Đỗ Ngọc Ý T, sinh ngày 06/10/2013 cho ông Đỗ Bá Ch được trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Đỗ Bá Ch về việc không yêu cầu bà Trần Thị Ngọc Th cấp dưỡng nuôi con.
Ông Đỗ Bá Ch và bà Trần Thị Ngọc Th đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định của pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người đang trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.
- Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
2. Về án phí sơ thẩm: Ông Đỗ Bá Ch phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0005692 ngày 10/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
Các đương sự vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con số 37/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 37/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 14/04/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về