Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con số 23/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EAKAR, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 23/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/08/2021 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 23 tháng 8 năm 2021 tại hội trường Tòa án nhân dân huyện EaKar xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 190/2021/TLST- HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2021 về việc “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 16 tháng 7 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện EaKar, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Th, sinh năm 1997. Địa chỉ: Thôn 7, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. (Có mặt).

2. Bị đơn: Ông Trần Hữu Ph, sinh năm 1997. Địa chỉ: Thôn 7, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 28/4/2021, quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn bà Phạm Thị Th trình bày:

Bà Phạm Thị Th và ông Trần Hữu Ph có đăng ký kết hôn tại UBND xã Cư Prông, huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 22/8/2017 trên cơ sở tự nguyện, không bị ai ép buộc.

Sau khi kết hôn, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do tính tình không hợp nhau, bất đồng về quan điểm sống, không có tiếng nói chung trong cuộc sống, thường xuên cãi vã nên mâu thuẫn vợ chống ngày càng trầm trọng không thể giải quyết được và đã sống ly thân từ tháng 5/2020 đến nay. Nay tình cảm vợ chồng không còn, không thể chung sống cùng nhau được nữa, bà Th làm đơn khởi kiện yêu cầu Toà án nhân dân huyện EaKar giải quyết cho bà Th được ly hôn ông Trần Hữu Ph.

Về con chung: Trong quá trình chung sống, bà Th và ông Ph có 01 con chung là Trần Hữu L, sinh ngày 21/4/2017. Con chung hiện nay do bà Th trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục nên sau ly hôn bà Th có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi) và không yêu cầu ông Ph phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên bà Th không yêu cầu Toà án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện EaKar đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, ông Ph đã được triệu tập hợp lệ nhưng không có mặt tại Toà án để làm việc nên không tiến hành hoà giải được. Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện EaKar quyết định đưa vụ án ra xét xử.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Bị đơn ông Trần Hữu Ph đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng ông Ph vẫn vắng mặt tại phiên Tòa. Vì vậy, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Ph là đúng quy định của pháp luật.

- Thẩm phán xác định đúng quan hệ pháp luật, thẩm quyền giải quyết, tư cách tham gia tố tụng của các đương sự trong vụ án. Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án cũng như Hội đồng xét xử (HĐXX), thư ký tại phiên tòa đảm bảo quy định về trình tự thủ tục tố tụng dân sự.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đề nghị HĐXX tuyên xử cho bà Phạm Thị Th được ly hôn ông Trần Hữu Ph. Giao con chung Trần Hữu L, sinh ngày 21/4/2017cho bà Phạm Thị Th được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi), bà Thkhông yêu cầu ông Ph phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Th, ông Ph không yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Phạm Thị Thkhởi kiện yêu cầu ly hôn ông Nguyễn Văn Nam. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng Dân sự, đây là yêu cầu “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con”. Bị đơn hiện đang cư trú tại huyện EaKar, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk.

[2] Về hôn nhân: Bà Phạm Thị Th và ông Trần Hữu Ph có đăng ký kết hôn tại UBND xã Cư Prông, huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 22/8/2017 trên cơ sở tự nguyện, không bị ai ép buộc. Hôn nhân của ông bà là hợp pháp và được pháp luật bảo vệ.

Sau khi kết hôn, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do tính tình không hợp nhau, bất đồng về quan điểm sống, không có tiếng nói chung trong cuộc 2 sống, thường xuên cãi vã nên mâu thuẫn vợ chống ngày càng trầm trọng không thể giải quyết được và đã sống ly thân từ tháng 5/2020 đến nay. Nay bà Th thấy tình cảm giữa bà Th và ông Ph không còn, chung sống cùng nhau không hạnh phúc nên bà Th có nguyện vọng được ly hôn ông Trần Hữu Ph. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhiều lần động viên bà Th về đoàn tụ cùng ông Ph để cùng nhau nuôi dạy con chung nhưng bà Th vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn ông Trần Hữu Ph. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa bà Phạm Thị Th và ông Trần Hữu Ph mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử cần xử cho bà Phạm Thị Th được ly hôn ông Trần Hữu Ph.

[3] Về con chung: Bà Th và ông Ph có 01 con chung Trần Hữu L, sinh ngày 21/4/2017. Con chung hiện nay do bà Th trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục nên sau ly hôn bà Th có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi) và không yêu cầu ông Ph phải cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và quyền lợi của con chưa thành niên. Từ khi còn sống chung cho đến khi hai vợ chồng sống ly thân, bà Th là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc các con. Hiện nay con chung đang học tập và sống ổn định cùng bà Th. Bà Th hiện nay làm công nhân có thu nhập ổn định, đồng thời có nơi ở ổn định bảo đảm sự phát triển đầy đủ về thể chất cũng như tinh thần cho con chung. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con, nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chưa thành niên, căn cứ vào khoản 2 Điều 81 của LHNGĐ, HĐXX cần giao con chung Trần Hữu L, sinh ngày 21/4/2017 cho bà Phạm Thị Thđược trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi) là phù hợp với quy định của pháp luật. Bà Phạm Thị Th không yêu cầu ông Trần Hữu Ph phải cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên bà Th, ông Ph không yêu cầu Toà án giải quyết.

[5] Về án phí: Bà Phạm Thị Th phải chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228, Điều 266; Điều 271, Điều 273 Bộ Luật tố tụng dân sự; Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị Th.

- Quan hệ về hôn nhân: Xử cho bà Phạm Thị Th được ly hôn ông Trần Hữu Ph.

- Về con chung: Giao con chung Trần Hữu L, sinh ngày 21/4/2017 cho bà Phạm Thị Th được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi con thành niên (đủ 18 tuổi).

3 Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một bên hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con; không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Phạm Thị Th không yêu cầu ông Trần Hữu Ph phải cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà Phạm Thị Th và ông Trần Hữu Ph không yêu cầu Toà án giải quyết.

2. Về án phí: Bà Phạm Thị Th phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng bà Th đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số: 60AA/2021/0005327 ngày 05/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện EaKar.

3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con số 23/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:23/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea Kar - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;