Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con số 133/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ A, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 133/2022/HNGĐ-ST NGÀY 24/02/2022 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 24 tháng 02 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã A, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 49/2021/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 11 năm 2021, về việc “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 531/2022 /QĐXX ST-HNGĐ ngày 17 tháng 01 năm 2021, và Quyết định hoãn phiên tòa 562/2022/QĐST-HNGĐ giữa các đương sự Nguyên đơn: Anh Trần Minh Q, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Thôn T1, xã T2, thành phố T3, tỉnh Quảng Nam.

Bị đơn: Chị Nguyễn Thị P, sinh năm 1999 Địa chỉ: Đường Đ, khu vực V, phường N, thị xã A, tỉnh Bình Định. (Tất cả đương sự vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 08/11/2021 và các văn bản tố tụng khác nguyên đơn anh Trần Minh Q trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị P có tìm hiểu nhau khoảng 06 tháng. Cả hai tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn năm 2018 tại UBND xã T2, thành phố T3, tỉnh Quảng Nam. Sau khi kết hôn,vợ chồng sống tại nhà cha mẹ anh ở Quảng Nam. Cuộc sống vợ chồng thời gian đầu bình thường, khoảng đến cuối năm 2019 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường có lời qua tiếng lại, vì không thống nhất về chỗ ở, chị P không muốn sống chung nhà với cha mẹ chồng mà chỉ muốn về quê chị ở Bình Định. Ngoài ra anh chị còn những mâu thuẫn lặt vặt khác trong cuộc sống hàng ngày, thường lời qua tiếng lại. Từ cuối năm 2019, P tự bỏ nhà dẫn con về Bình Định ở cho đến nay, anh có đến nhà mẹ vợ để động viên Phượng quay về nhưng không đồng ý.Vợ chồng không còn sống chung từ cuối năm 2019 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay anh xác định không còn tình cảm với chị P nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh ly hôn với chị Nguyễn Thị P.

Về con chung: Vợ chồng có một người con chung tên Trần Nguyễn Trọng N1, sinh ngày 27/9/2018. Hiện nay cháu N1 đang ở với chị P. Anh yêu cầu giao con chung cho chị P tiếp tục nuôi dưỡng, anh không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung anh không yêu cầu giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 17/02/2021 và các văn bản tố tụng khác bị đơn chị Nguyễn Thị P trình bày: Trước khi cưới, chị và anh Trần Minh Q có tìm hiểu nhau khoảng 01 năm. Cả hai tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn năm 2018 tại UBND xã T2, thành phố T3, tỉnh Quảng Nam. Sau khi cưới, vợ chồng sống tại nhà cha mẹ chồng ở Quảng Nam. Cuộc sống vợ chồng thời gian đầu bình thường, vài tháng sau vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh Q thay đổi tính tình, anh không quan tâm đến vợ con, hay uống rượu bia với bạn bè, anh vô kế chửi mắng và nhiều lần đuổi vợ ra khỏi nhà, vợ chồng thường có lời qua tiếng lại. Ngoài ra còn có những mâu thuẫn lặt vặt khác trong cuộc sống hàng ngày. Cuối năm 2019, chị buồn bực nên dẫn con về quê sống. Hiện chị xác định không còn tình cảm với anh Q nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Q. Chị không yêu cầu Tòa hòa giải về quan hệ hôn nhân giữa chị và anh Q.

Về con chung: Vợ chồng có một người con chung tên Trần Nguyễn Trọng N1, sinh ngày: 27/9/2018, chị yêu cầu tiếp tục nuôi duỗng con chung, yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000đ, thời điểm cấp dưỡng từ nay cho đến khi cháu N1 đến tuổi trưởng thành. Chị làm quản lý nhà hàng bình quân thu nhập hàng tháng 5.000.000đ.

Về tài sản chung và nợ chung chị không yêu cầu Tòa giải quyết.

Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến nay, tất cả các hoạt động tố tụng của những người tiến hành tố tụng và việc tuân thủ pháp luật của các đương sự, đều theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị chấp nhận yêu cầu của anh Q, cho anh Trần Minh Q được ly hôn với chị Nguyễn Thị P - Về con chung: Giao người con chung tên Trần Nguyễn Trọng N1, sinh ngày: 27/9/2018 cho chị P tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục con chung cho đến tuổi trưởng thành. Anh Q cấp dưỡng nuôi cháu N1 mỗi tháng 1.000.000đ.(Một triệu đồng) từ nay cho đến tuổi trưởng thành.

- Về tài sản chung và nợ: Anh chị không yêu cầu Tòa giải quyết.

- Về án phí: Các đương sự phải chịu theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về mặt tố tụng:

Về sự vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn anh Trần Minh Q và chị Nguyễn Thị P có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, theo điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Q và chị P.

[2] Về mặt nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Q và chị P tự nguyện đi đến hôn nhân, anh chị làm thủ tục cưới hỏi và đăng ký kết hôn, theo giấy chứng nhận kết hôn số 37 ngày 14/6/2018 của UBND xã T2, thành phố T3, tỉnh Quảng Nam nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình sống chung, anh chị bất đồng quan điểm sống, và có nhiều mâu thuẫn lặt vặt khác trong cuộc sống hàng ngày. Chị P tự bỏ về phía mẹ sống, anh chị không sống chung sống với nhau, chia sẻ nhau những công việc trong cuộc sống hàng ngày, đã sống ly thân từ cuối năm 2019 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Hiện anh chị không còn tình cảm với nhau, chị P không yêu cầu hòa giải về quan hệ hộn nhân . Qua viện dẫn và phân tích ở trên, HĐXX có cơ sở để xác định mục đích hôn nhân của anh chị không đạt được, do đó việc anh Q yêu cầu ly hôn chị P là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 19 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, nên được HĐXX chấp nhận.

[2.2.] Xét về yêu cầu nuôi con chung: Vợ chồng có 01 người con chung tên Trần Nguyễn Trọng N1, sinh ngày 27/9/2018 chị P yêu cầu được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng cháu N1, anh Q thống nhất giao cháu N1 cho chị P nuôi dưỡng sau ly hôn là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, nên HĐXX công nhận.

[2.3] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Chị P yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 1.500.000đ. Qua xem xét mức chi phí sinh hoạt ở địa phương của trẻ em hiện nay thì mức cấp dưỡng với 1.000.000đ là phù hợp quy định tại Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình nên được HĐXX chấp nhận một phần yêu cầu của chị P, buộc anh Q cấp dưỡng nuôi con 1.000.000đ/tháng. Thời điểm cấp dưỡng từ tháng 02/2022 còn về phương thức cấp dưỡng và thời điểm chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng căn cứ theo Điều 117 và 118 Luật hôn nhân và gia đình.

[2.4] Về tài sản chung và nợ: Anh Q và chị P không yêu cầu nên miễn xét.

[2.5] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Khoản 5, 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, thì anh Q phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm và 300.000đ về án phí cấp dưỡng nuôi con.

[3] Đề nghị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã A phù hợp với nhận định trên nên HĐXX chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 238, 271, và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

- Áp dụng các Điều 19,56,81,82,83,84,116,117 và Điều 118 Luật Hôn nhân và gia đình;

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Trần Minh 0Quãng ly hôn với chị Nguyễn Thị P.

2. Về con chung: Giao người con chung tên Trần Nguyễn Trọng N1, sinh ngày 27/9/2018 cho chị P tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục con chung cho đến tuổi trưởng thành hoặc có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật. Anh Q phải cấp dưỡng nuôi cháu N1 mỗi tháng 1.000.000đ (Một triệu đồng ). Thơi điêm câp dương tinh tư thang 02/2022 cho đên khi chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng thuộc một trong các trường hợp được quy định tại Điều 118 Luật hôn nhân gia đình.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm con của người đó.

Vì lợi ích của con, các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn hoặc về mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ: Anh Q và chị P không yêu cầu giải quyết.

4. Về án phí: Anh Trần Minh Q phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con, được khấu trừ vào 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí số 0004966 ngày 08 tháng 11 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã A. Anh Q còn phải nộp 300.000đ ((Ba trăm nghìn đồng)

5. Quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo thời hạn kháng cáo 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

130
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con số 133/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:133/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã An Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;