TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÙ LAO DUNG, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 16/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/06/2022 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 15 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 07/2022/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 02 năm 2022 về việc ly hôn và tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Sơn Thị Trúc L, sinh ngày 01/01/1996.
Nơi cư trú: Ấp L, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).
- Bị đơn: Anh Vỏ (Võ) Trung H1, sinh năm 1985.
Nơi cư trú: Ấp P, thị trấn C, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 08 tháng 02 năm 2022 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Sơn Thị Trúc L trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh H1 tự nguyện tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương vào năm 2016 và có đăng ký kết hôn vào ngày 30/05/2017 tại Ủy ban nhân dân thị trấn C theo quy định của pháp luật. Thời gian đầu chị L và anh H1 chung sống với nhau rất hạnh phúc đến tháng 02/2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng ý kiến với nhau trong cuộc sống nên cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, chị L và anh H1 không còn sống chung từ tháng 02/2019 cho đến nay.
Về con chung: Trong thời gian chung sống chị L và anh H1 có 02 người con chung tên Vỏ (Võ) Thị Bảo N, sinh ngày 25/7/2017 và Sơn Trung H2, sinh ngày 01/06/2020. Hiện nay cháu N đang sống chung với anh H1 còn cháu H2 đang sống chung với chị L.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị L và anh H1 không có tài sản chung và không có nợ chung.
Nay chị L yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị L yêu cầu được ly hôn với anh Vỏ Trung H1.
- Về con chung: Chị L thống nhất giao con chung tên Vỏ Thị Bảo N, sinh ngày 25/7/2017 cho anh H1 trực tiếp nuôi dưỡng cho đến tuổi thành niên và chị L không phải cấp dưỡng nuôi cháu N; chị L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Sơn Trung H2, sinh ngày 01/06/2020 đến tuổi thành niên và không yêu cầu anh H1 phải cấp dưỡng nuôi cháu H2.
- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại tờ tường trình lập ngày 15 tháng 6 năm 2022 cũng như lời khai tại phiên tòa, bị đơn anh Vỏ Trung H1 trình bày:
Anh H1 có nhận được thông báo thụ lý vụ án số 07/TB-TLVA ngày 17 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng. Nội dung trình bày theo đơn khởi kiện của chị L là đúng.
Nay anh H1 có ý kiến như sau:
Về quan hệ hôn nhân: Anh H1 đồng ý ly hôn với chị Sơn Thị Trúc L.
Về con chung: Anh H1 và chị L có 02 người con chung tên Vỏ Thị Bảo N, sinh ngày 25/7/2017 và Sơn Trung H2, sinh ngày 01/6/2020. Hiện nay cháu N đang sống chung với anh H1, cháu H2 đang sống chung với chị L. Anh H1 yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung tên Vỏ Thị Bảo N, sinh ngày 25/7/2017 đến tuổi thành niên, anh H1 không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con chung. Anh H1 đồng ý giao cháu Sơn Trung H2, sinh ngày 01/6/2020 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên, anh H1 không phải cấp dưỡng nuôi cháu H2 đến tròn 18 tuổi.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự, trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, bị đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về việc giải quyết vụ án, xét thấy nguyên đơn, bị đơn thường xuyên mâu thuẫn với nhau do bất đồng quan điểm sống, không còn sống chung với nhau thời gian dài, không hàn gắn được nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn.
- Về con chung: Chị L và anh H1 có 02 con chung tên Vỏ Thị Bảo N, sinh ngày 25/7/2017 và Sơn Trung H2, sinh ngày 01/6/2020. Hiện nay cháu N đang sống chung với anh H1, cháu H2 đang sống chung với chị L. Anh H1 và chị L đều thống nhất giao cháu N cho anh H1 trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên; giao cháu H2 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên và hiện nay cháu H2 dưới 36 tháng tuổi. Căn cứ vào khoản 2, 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu N cho anh H1 trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên và giao cháu H2 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên là phù hợp, đúng quy định của pháp luật. Chị L không yêu cầu anh H1 cấp dưỡng nuôi cháu H2 và anh H1 không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi cháu N nên không đặt ra xem xét. Căn cứ vào khoản 1 Điều 81; khoản 1, 3 Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình, giành quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của nhau cho chị L và anh H1.
- Về tài sản chung, nợ chung: Chị L và anh H1 thống nhất không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.
- Về án phí: Chị L có đơn yêu cầu ly hôn nên phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
Từ những phân tích trên đề nghị Hội đồng xét xử nghị án và tuyên án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về thủ tục thụ lý đơn khởi kiện của nguyên đơn và thẩm quyền giải quyết: Chị Sơn Thị Trúc L cư trú tại ấp L, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng; anh Vỏ Trung H1 cư trú tại ấp P, thị trấn C, huyện C, tỉnh Sóc Trăng. Chị L có đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh H1 và yêu cầu Tòa án giải quyết việc nuôi con chung. Chị L đã nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung đã thụ lý đơn và thông báo cho chị L nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật và chị L đã thực hiện việc nộp tiền tạm ứng án phí đúng quy định. Như vậy, việc Tòa án nhân dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng thụ lý đơn khởi kiện của chị Sơn Thị Trúc L là đúng thẩm quyền và đúng theo trình tự thủ tục tố tụng theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 191 và Điều 195 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2] Nguyên đơn chị Sơn Thị Trúc L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, chị L có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt nên căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt chị Sơn Thị Trúc L.
[2] Về nội dung:
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Sơn Thị Trúc L, sinh năm 1996 và anh Vỏ Trung H1, sinh năm 1985 tự nguyện đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân thị trấn C, huyện C, tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn số 23/2017 ngày 30 tháng 5 năm 2017 nên quan hệ hôn nhân giữa chị Sơn Thị Trúc L và anh Vỏ Trung H1 là hợp pháp.
[4] Xét lý do xin ly hôn của chị Sơn Thị Trúc L, Hội đồng xét xử xét thấy, sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng chị L, anh H1 hạnh phúc được một thời gian. Đến tháng 02 năm 2019, thì phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng ý kiến trong cuộc sống nên vợ chồng không còn hạnh phúc, chị L và anh H1 không còn sống chung từ đó cho đến nay. Chị L và anh H1 đã bỏ mặc nhau làm cho tình trạng hôn nhân của vợ chồng chị L và anh H1 trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L.
[5] Về con chung: Chị L và anh H1 có 02 con chung tên tên Vỏ Thị Bảo N, sinh ngày 25/7/2017 và Sơn Trung H2, sinh ngày 01/6/2020. Hiện nay cháu N đang sống chung với anh H1, cháu H2 đang sống chung với chị L. Anh H1 và chị L đều thống nhất giao cháu N cho anh H1 trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên; giao cháu H2 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên và hiện nay cháu H2 dưới 36 tháng tuổi. Căn cứ vào khoản 2, 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu N cho anh H1 trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên và giao cháu H2 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên là phù hợp, đúng quy định của pháp luật.
[6] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị L không yêu cầu anh H1 cấp dưỡng nuôi cháu H2 đến tròn 18 tuổi và anh H1 không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi cháu N đến tròn 18 tuổi nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[7] Căn cứ vào khoản 1 Điều 81, khoản 1 và khoản 3 Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình, chị Sơn Thị Trúc L và anh Vỏ Trung H1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của nhau mà không ai được cản trở. Chị L và anh H1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Chị L và anh H1 không được lạm dụng việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của nhau.
[8] Về tài sản chung, nợ chung: Chị L và anh H1 xác định không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[9] Xét đề nghị của Kiểm sát viên về nội dung giải quyết vụ án là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[10] Về án phí: Chị Sơn Thị Trúc L là người có đơn xin ly hôn nên căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, chị L phải chịu án phí sơ thẩm trong vụ án ly hôn là 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 228 và khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Khoản 1 Điều 56, Điều 81, khoản 1 và khoản 3 Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình;
- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Sơn Thị Trúc L và anh Vỏ Trung H1 ly hôn.
2. Về con chung: Giao cháu Vỏ Thị Bảo N, sinh ngày 25/7/2017 cho anh Vỏ Trung H 1trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên; giao cháu Sơn Trung H2, sinh ngày 01/06/2020 cho chị Sơn Thị Trúc L trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên. Chị L và anh H1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Chị L và anh H1 không được lạm dụng việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của nhau.
3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị L và anh H1 không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.
4. Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.
5. Về án phí: Chị Sơn Thị Trúc L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số:
0001783 ngày 11 tháng 02 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, chị Sơn Thị Trúc L đã nộp xong án phí.
6. Bị đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm.
Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 16/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 16/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cù Lao Dung - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/06/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về