TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 20/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/03/2022 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG
Ngày 30 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 01/2022/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 01 năm 2022 về việc “Ly hôn và tranh chấp nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22A/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 02 năm 2022, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Lê Hồng C, sinh năm 1991;
Hộ khẩu thường trú: Ấp N, xã T, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng; chỗ ở hiện nay: Ấp T, xã Đ, huyện T, tỉnh Đồng Nai (Vắng mặt).
2. Bị đơn: Ông Lê Văn Đ, sinh năm 1987
Địa chỉ: Ấp N, xã T, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện ngày 13/12/2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Lê Hồng C trình bày:
Vào năm 2009, bà Lê Hồng C và ông Lê Văn Đ chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Thạnh, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng vào ngày 24/6/2009. Ông, bà chung sống hạnh phúc được một thời gian dài, sau đó đến đầu năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống nên cuộc sống không hạnh phúc và ông, bà sống ly thân từ đó cho đến nay. Trong quá trình chung sống bà C và ông Đ có 02 người con chung tên Lê Đức T, sinh ngày 30/7/2009 và Lê Quang Đ, sinh ngày 15/01/2019, hiện cháu T đang sống chung với ông Đ, cháu Đ đang sống chung với bà C. Quá trình chung sống bà và ông Đ không có tài sản chung và nợ chung.
Tại đơn xin xét xử vắng mặt ngày 25 tháng 3 năm 2022, bà Lê Hồng C xin thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, cụ thể: Về hôn nhân xin được ly hôn với ông Lê Văn Đ; về con chung xin được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Lê Đức T, sinh ngày 30/7/2009 và Lê Quang Đ, sinh ngày 15/01/2019 đến khi thành niên, không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Đối với bị đơn ông Lê Văn Đ: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho ông Đ, nhưng ông không có ý kiến phản đối gì. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông Đ 02 lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông vẫn vắng mặt không lý do. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông Đ để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.
- Tại phiên toà, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Việc Tòa án thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền; việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và xác định tư cách của người tham gia tố tụng trong vụ án là đúng quy định của pháp luật; Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xet xư; nguyên đơn trong quá trinh giai quyết vụ án kể từ ngày thụ lý vụ án đến trước điểm Hội đồng xét xư vao nghi án đã chấp hanh đung các quy đinh cua phap luât về tố tung dân sư riêng bị đơn chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoả n 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
+ Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Lê Hồng C.
+ Về con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng: Giao con chung là cháu Lê Đức T, sinh ngày 30/7/2009 và Lê Quang Đ, sinh ngày 15/01/2019 cho bà Lê Hồng C được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến khi thành niên, ông Lê Văn Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà C không yêu cầu.
+ Về tài sản chung: Bà Lê Hồng C xác định trong thời gian chung sống bà và ông Lê Văn Đ không có tài sản chung, bà không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.
+ Về nợ chung: Bà Lê Hồng C xác định trong thời gian chung sống bà và ông Lê Văn Đ không có nợ chung, bà không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa nguyên đơn bà Lê Hồng C đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt và bà C có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn ông Lê Văn Đ từ khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho ông Đ nhưng ông không có ý kiến phản đối gì. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông Đ hai lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông vẫn vắng mặt không lý do. Tại phiên tòa, bị đơn ông Lê Văn Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng không lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với bà C và ông Đ.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Hồng C xác định trong thời gian chung sống bà và ông Lê Văn Đ có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Thạnh, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng, đăng ký ngày 24/6/2009. Hôn nhân của bà C và ông Đ tuân thủ các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình nên pháp luật công nhận quan hệ hôn nhân giữa bà Lê Hồng C và ông Lê Văn Đ là hợp pháp. Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 14/12/2021 và ý kiến trình bày trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 25/3/2022, bà C vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với ông Đ với lý do trong quá trình chung sống, đến đầu năm 2021 thì hai bên bất đồng quan điểm trong cuộc sống hàng ngày, thường xuyên cải nhau dẫn đến mâu thuẫn gay gắt, đời sống hôn nhân không hạnh phúc và ông, bà đã sống ly thân từ đó cho đến nay. Từ khi bà C chính thức xin ly hôn đến nay nhưng hai bên không tìm biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Đối với bị đơn ông Lê Văn Đ, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt các tài liệu, chứng cứ mà bên nguyên đơn cung cấp và thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho ông Đ biết nhưng ông không có ý kiến phản đối gì và cũng không trình bày ý kiến gì cho Tòa án. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa bà C và ông Đ đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà C được ly hôn với ông Đ.
[3]. Về con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Bà Lê Hồng C xác định trong thời gian chung sống bà và ông Đ có 02 người con chung là Lê Đức T, sinh ngày 30/7/2009 và Lê Quang Đ, sinh ngày 15/01/2019, hiện nay các người con chung đang sống chung với bà C. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt bà C xác định từ khi bà và ông Đ sống ly thân thì bà là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu T và cháu Đ, hiện nay các cháu vẫn đang chung sống với bà nên bà xin được quyền trực tiếp nuôi dưỡng các cháu đến khi thành niên, không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con. Xét điều kiện, hoàn cảnh thực tế bà C và ông Đ đã không còn chung sống với nhau từ đầu năm 2021 cho đến nay, trong khoảng thời gian này cháu T và cháu Đ chung sống với bà C, do bà trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, cuộc sống của cháu T và cháu Đ đã ổn định về mọi mặt; việc thay đổi điều kiện, hoàn cảnh sống sẽ làm ảnh hưởng đến tâm lý, tình cảm, sự phát triển bình thường về mọi mặt của các cháu; đồng thời quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành ghi nhận ý kiến cháu T thì nguyện vọng của các cháu muốn sống chung với bà C. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định giao con chung là cháu Lê Đức T, sinh ngày 30/7/2009 và Lê Quang Đ, sinh ngày 15/01/2019 cho bà C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là cần thiết và phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Ngoài ra căn cứ vào khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, dành quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung cho ông Lê Văn Đ mà không ai được ngăn cản.
[4]. Về tài sản chung: Trong quá trình giải quyết vụ án bà Lê Hồng C xác định bà và ông Lê Văn Đ không có tài sản chung, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét là có căn cứ.
[5]. Về nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án bà Lê Hồng C xác định bà và ông Lê Văn Đ không có nợ chung, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét là có căn cứ.
[6]. Về án phí: Bà Lê Hồng C phải chịu án phí theo qui định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Ông Lê Văn Đ không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
[7]. Như đã phân tích nêu trên xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú về đề nghị giải quyết về hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Bà Lê Hồng C được ly hôn với ông Lê Văn Đ.
2. Về con chung: Giao con chung là cháu Lê Đức T, sinh ngày 30/7/2009 và Lê Quang Đ, sinh ngày 15/01/2019 cho bà Lê Hồng C được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng đến khi thành niên; ông Lê Văn Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Dành quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung cho ông Lê Văn Đ mà không ai được ngăn cản.
3. Về tài sản chung: Bà Lê Hồng C xác định bà và ông Lê Văn Đ không có tài sản chung, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
4. Về nợ chung: Bà Lê Hồng C xác định bà và ông Lê Văn Đ không có nợ chung, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lê Hồng C phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0003283 ngày 04/01/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, bà C đã nộp xong tiền án phí dân sự sơ thẩm. Ông Lê Văn Đ không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn; bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày tống đạt hợp lệ bản án theo quy định pháp luật.
7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con chung số 20/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 20/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/03/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về