TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 223/2024/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2024 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP CON CHUNG KHI LY HÔN
Ngày 30 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 258/2024/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 8 năm năm 2024 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 229/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 9 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 169/2024/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Đỗ Phương N; nơi cư trú: Thôn 8, xã M, huyện T, thành phố H.
Vắng mặt và có đề nghị xét xử vắng mặt.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Minh C; nơi cư trú: Thôn 8, xã M, huyện T, thành phố H.
Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Đỗ Phương N trình bày:
Chị và anh Nguyễn Minh C kết hôn trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M,huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng vào ngày 15 tháng 10 năm 2012. Sau khi cưới, chị N về chung sống cùng anh C tại thôn 8, xã M, huyện T, H. Cuộc sống chung vợ chồng hòa thuận đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và trong làm ăn kinh tế, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung để cùng nhau xây dựng gia đình và chăm nom con cái, dẫn đến thường xuyên xảy ra cãi mắng xúc phạm nhau. Do mâu thuẫn, chị N và anh C đã sống ly thân nhau từ năm 2016 cho đến nay. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ nên chị N đề nghị được ly hôn anh Nguyễn Minh C.
Về con chung: Chị và anh Nguyễn Minh C có hai con chung tên Nguyễn Phú Khương D, sinh ngày 07 tháng 9 năm 2012 và Nguyễn Ngọc Linh Đ, sinh ngày 15 tháng 8 năm 2013. Khi ly hôn, chị N có đề nghị để anh C được trực tiếp nuôi dưỡng các con chung. Cấp dưỡng nuôi con do chị và anh C tự thỏa thuận, không đề nghị Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Chị và anh Nguyễn Minh C không có tài sản chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết.
Anh Nguyễn Minh C là bị đơn, đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa lần thứ hai, song anh C vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không có văn bản trình bày ý kiến về quan hệ hôn nhân, nuôi con chung và tài sản chung.
Qua kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án và tham gia phiên tòa sơ thẩm hôm nay. Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:
Thẩm phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán, đã thực hiện đúng và đầy đủ quy định về ra Thông báo thụ lý vụ án, bảo đảm về thời hạn chuẩn bị xét xử, việc lập hồ sơ vụ án, xác định tư cách pháp lý và mối quan hệ giữa những người tham gia tố tụng, việc giao nộp và yêu cầu đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ, xác minh, cấp tống đạt và tổ chức phiên họp kiểm tra tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải đã đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã đảm bảo tuân theo đúng quy định của pháp luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.
Việc chấp hành pháp luật của các đương sự trong vụ án, nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; bị đơn chưa chấp hành đúng quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị Đỗ Phương N và đề nghị Hội đồng xét xử: Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Đỗ Phương N được ly hôn anh Nguyễn Minh C; Về con chung: Giao các con chung tên Nguyễn Phú Khương D, sinh ngày 07 tháng 9 năm 2012 và Nguyễn Ngọc Linh Đ, sinh ngày 15 tháng 8 năm 2013 cho anh Nguyễn Minh C trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi từng con chung thành niên và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Để hai bên tự thỏa thuận giao nhận cho nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên kiểm sát viên không đề cập giải quyết; Về tài sản chung: Chị N trình bày vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập giải quyết; Về án phí: Nguyên đơn chị Đỗ Phương N phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết Chị Đỗ Phương N có đơn xin ly hôn với anh Nguyễn Minh C. Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Anh Nguyễn Minh C hiện đang cư trú tại thôn 8, xã Tam Hưng, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng.
[2] Về sự vắng mặt của đương sự Nguyên đơn là chị Đỗ Phương N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn là anh Nguyễn Minh C đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
[3] Về quan hệ hôn nhân Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Đỗ Phương N và anh Nguyễn Minh C kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M,huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 83, ngày 15 tháng 10 năm 2012 là hôn nhân hợp pháp. Tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thống nhất thể hiện, đời sống chung của chị N và anh C đã phát sinh mâu thuẫn từ năm 2016. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, kinh tế chung gia đình gặp nhiều khó khăn dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, xung đột. Gia đình đã động viên hòa giải nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không được cải thiện. Do mâu thuẫn, chị N và anh C đã sống ly thân nhau từ năm 2016 cho đến nay, không ai còn quan tâm đến ai. Chị N giữ nguyên đề nghị được ly hôn với anh Nguyễn Minh C; anh C vắng mặt tại các buổi hòa giải và tại phiên tòa, đồng thời cũng không có văn bản trình bày ý kiến gửi đến Tòa án, cho thấy anh C không quan tâm đến việc hàn gắn quan hệ vợ chồng. Từ đây xác định hôn nhân giữa chị N và anh C không còn khả năng đoàn tụ, mâu thuẫn đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, căn cứ Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị N, cho chị Đỗ Phương N được ly hôn anh Nguyễn Minh C.
[4] Về con chung Chị Đỗ Phương N và anh Nguyễn Minh C có hai con chung tên Nguyễn Phú Khương D, sinh ngày 07 tháng 9 năm 2012 và Nguyễn Ngọc Linh Đ, sinh ngày 15 tháng 8 năm 2013. Khi ly hôn, chị N có đề nghị để anh C được trực tiếp nuôi dưỡng các con chung. Tài liệu có trong hồ sơ vụ án thống nhất thể hiện: Kể từ khi chị N và anh C sống ly thân cho đến nay, các con chung Nguyễn Phú Khương Duy và Nguyễn Ngọc Linh Đan đều đang ở cùng anh C, được chăm sóc phát triển khỏe mạnh và học tập trên địa bàn xã Minh Tân; việc nuôi dưỡng con chung của anh C đã ổn định. Mặt khác, các con chung Duy và Đan đều có nguyện vọng được ở cùng bố. Vì vậy, để ổn định đời sống của các con chung, để đảm bảo nghĩa vụ, quyền lợi của cha mẹ đối với con cái, Hội đồng xét xử quyết định giao các con chung tên Nguyễn Phú Khương Duy và Nguyễn Ngọc Linh Đan cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi các con chung thành niên và có khả năng lao động hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật, là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Đỗ Phương N đề nghị để chị và anh C tự thỏa thuận giao nhận cho nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bị đơn anh C vắng mặt và không có ý kiến gì về cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
[5] Về tài sản chung Chị Đỗ Phương N trình bày vợ chồng không có tài sản chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bị đơn anh Nguyễn Minh C vắng mặt tại phiên tòa và không có quan điểm trình bày về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[6] Về án phí Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án, chị Đỗ Phương N phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 35, Điều 39; Điều 147; khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228; Điều 238 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Phương N:
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Đỗ Phương N được ly hôn với anh Nguyễn Minh C.
2. Về con chung:
Giao cho anh Nguyễn Minh C trực tiếp nuôi dưỡng các con chung tên Nguyễn Phú Khương D, sinh ngày 07 tháng 9 năm 2012 và Nguyễn Ngọc Linh Đ, sinh ngày 15 tháng 8 năm 2013 đến khi các con chung thành niên và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Về cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
4. Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
5. Về án phí: Chị Đỗ Phương N phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Đối trừ với số tiền tạm ứng án phí đã nộp (ghi tại biên lai thu số 0010055 ngày 19/8/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên), chị Đỗ Phương N đã nộp đủ án phí.
6.Về quyền kháng cáo:
Chị Đỗ Phương N, anh Nguyễn Minh C có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Bản án về ly hôn và tranh chấp con chung khi ly hôn số 223/2024/HNGĐ-ST
| Số hiệu: | 223/2024/HNGĐ-ST |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
| Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
| Ngày ban hành: | 30/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về