Bản án về ly hôn và nuôi con giữa chị Xu và anh Th số 229/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH - TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 229/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/07/2022 VỀ LY HÔN VÀ NUÔI CON GIỮA CHỊ XU VÀ ANH TH

Ngày 22 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 195/2022/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 6 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2022/QĐXX-ST ngày 14 tháng 7 năm 2022 giữa:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị X, sinh năm 1989; Nơi đăng ký thường trú: xóm M, thôn P, xã Nam Ph, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.

Bị đơn: Anh Lê Hoàng Th, sinh năm 1985; Nơi đăng ký thường trú: xóm M, thôn P, xã Nam Ph, thành phố N, tỉnh Nam Định. Hiện đang chấp hành án tại Đội 3 phân trại số B trại giam Thanh L, xã Xuân H, huyện Như Xu, tỉnh Thanh Hóa.

(tại phiên tòa có mặt chị Xu, vắng mặt anh Th do có đơn xin giải quyết vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Trong đơn khởi kiện đề ngày 13-6-2022 và trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn là chị Trần Thị X trình bày:

Về quan hệ hôn nhân và mâu thuẫn vợ chồng: Chị và anh Th kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn vào ngày 10 tháng 02 năm 2009 tại UBND xã Nam Ph, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Th chơi bời, không tu chí làm ăn. Đến năm 2020 anh Th đã bị Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 02 năm tù vì tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Hiện tại anh Th đang chấp hành án tại Đội 3 phân trại số 3 trại giam Thanh L, xã Xuân H, huyện Như Xu, tỉnh Thanh Hóa. Từ khi anh Th bị bắt và tạm giam cho đến nay vợ chồng đã sống ly thân. Nay chị Xu xác định tình cảm vợ chồng không còn và xin được ly hôn anh Th.

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là Lê Ngọc Á, sinh ngày 16-01- 2009, giới tính: Nữ, Lê Ngọc Kh, sinh ngày 30-01-2012, giới tính: Nam và Lê Ngọc Hải, sinh ngày 21-3-2017, giới tính: Nam. Hiện nay đang ở với chị Xu. Chị Xu có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không đề nghị anh Th cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và vay nợ chung: Chị Xu không yêu cầu Toà án giải quyết.

2. Tại bản tự khai ngày 01-7-2022 anh Lê Hoàng Th trình bày:

Về điều kiện hôn nhân: Anh Th xác nhận điều kiện kết hôn của vợ chồng như chị Xu trình bày là đúng. Về mâu thuẫn vợ chồng anh Th trình bày: Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến khoảng đầu năm 2019 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Th nghiện ma túy không có thời gian chăm sóc chị Xu và các con. Hiện tại anh Th đang phải chấp hành bản án với mức hình phạt 02 năm tù của Tòa án nhân dân thành phố Nam Định về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đã chấp hành được 2/3 mức án. Nay chị Xu có nguyện vọng ly hôn, anh Th cũng đồng ý ly hôn với chị Xu. Do anh Th đang chấp hành án tại Đội 3 phân trại số 3 trại giam Thanh L, xã Xuân H, huyện Như Xu, tỉnh Thanh Hóa nên có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là Lê Ngọc Á, sinh ngày 16-01- 2009, giới tính: Nữ, Lê Ngọc Kh, sinh ngày 30-01-2012, giới tính: Nam và Lê Ngọc Hải, sinh ngày 21-3-2017, giới tính: Nam. Hiện nay con đang ở với chị Xu. Nếu ly hôn, anh Th đồng ý để chị Xu trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và vay nợ chung: Anh Th không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Tại biên bản thu thập tài liệu, chứng cứ ngày 07-7-2022, Ủy ban nhân dân xã Nam Ph xác nhận quá trình chung sống cũng như nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng chị Xu và anh Th là do vợ chồng bất đồng quan điểm, lối sống. Anh Th hiện đang chấp hành án tại Trại giam Thanh L, xã Xuân H, huyện Như Xu, tỉnh Thanh Hóa. Về con chung, chị Xu và anh Th có 03 con chung là Lê Ngọc Á, sinh ngày 16-01-2009, giới tính: Nữ, Lê Ngọc Kh, sinh ngày 30-01-2012, giới tính: Nam và Lê Ngọc Hải, sinh ngày 21-3-2017, giới tính: Nam. Các con chung hiện tại đang ở với chị Xu. Nay chị Xu có nguyện vọng ly hôn và nuôi con chung, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

4. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 48 và Điều 97 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nhận xét đánh giá về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự.

Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xử cho ly hôn giữa chị Trần Thị X và Lê Hoàng Th.

Về nuôi con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận sự tự nguyện của chị Xu và anh Th giao con 03 con chung là Lê Ngọc Á, sinh ngày 16-01-2009, giới tính: Nữ, Lê Ngọc Kh, sinh ngày 30-01-2012, giới tính: Nam và Lê Ngọc Hải, sinh ngày 21-3-2017, giới tính: Nam cho chị Xu trực tiếp nuôi dưỡng, anh Th không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và công nợ: chị Xu và anh Th không đề nghị giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Về án phí: Chị Xu là nguyên đơn nên phải nộp án phí ly hôn theo qui định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ lời trình bày và đề nghị của đương sự tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Anh Lê Hoàng Th là bị đơn đã có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

[2.1] Về điều kiện kết hôn: Chị Trần Thị X và anh Lê Hoàng Th kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Nam Ph, thành phố Nam Định ngày 10-02-2009. Như vậy hôn nhân giữa chị Xu và anh Th là hôn nhân hợp pháp.

[2.2] Về mâu thuẫn vợ chồng: Quá trình chung sống, chị Xu và anh Th chung sống hòa thuận đến năm 2019 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Th không tu chí làm ăn, không quan tâm đến vợ con. Đến năm 2021 đã bị Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 02 năm tù vì tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Hiện tại anh Th đang chấp hành án tại Đội 3 phân trại số 3 trại giam Thanh L, xã Xuân H, huyện Như Xu, tỉnh Thanh Hóa. Vợ chồng chị đã sống ly thân từ khi anh Th bị bắt cho đến nay. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị Xu và anh Th ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy Hội đồng xét xử sẽ áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 để xử cho ly hôn giữa chị Trần Thị X và Lê Hoàng Th.

[3] Về việc nuôi con chung: Chị Xu có nguyện vọng được nuôi dưỡng cả ba con chung là Lê Ngọc Á, Lê Ngọc Kh và Lê Ngọc Hải. Hội đồng xét xử nhận thấy hiện tại các con chung đang ở cùng với chị Xu và do chị Xu trực tiếp chăm sóc. Mặt khác, cháu Lê Ngọc Hải còn nhỏ, các cháu Lê Ngọc Á và Lê Ngọc Kh cũng có nguyện vọng được ở với chị Xu nếu bố mẹ ly hôn. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng vào các Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giao các con Lê Ngọc Á, Lê Ngọc Kh và Lê Ngọc Hải cho chị Xu trực tiếp nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Xu tự nguyện không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con nên chấp nhận sự tự nguyện của chị Xu là phù hợp với qui định của pháp luật.

[4] Về tài sản chung và vay nợ chung: Vợ chồng chị Xu và anh Th không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chị Trần Thị X là nguyên đơn trong vụ án nên phải phải chịu toàn bộ án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Khoản 4 Điều 147, Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa chị Trần Thị X và anh Lê Hoàng Th 2. Về nuôi con chung: Giao các con chung Lê Ngọc Á, sinh ngày 16-01- 2009, giới tính: Nữ, Lê Ngọc Kh, sinh ngày 30-01-2012, giới tính: Nam và Lê Ngọc Hải, sinh ngày 21-3-2017, giới tính: Nam cho chị Trần Thị X trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chấp nhận sự tự nguyện của chị Xu không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con chung có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Không ai được hạn chế, cản trở các quyền này.

Người không trực tiếp nuôi con chung có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi con, không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng con của người trực tiếp nuôi con chung

3. Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Trần Thị X phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Đối trừ khoản tiền tạm ứng án phí chị Xu đã nộp tại biên lai số 0005345 ngày 16-6-2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Nam Định.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị X có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Lê Hoàng Th có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn và nuôi con giữa chị Xu và anh Th số 229/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:229/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;