Bản án về ly hôn, tranh chấp về nuôi con số 42/2021/HNGĐ-ST

TAND HUYỆN BÌNH SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI

 BẢN ÁN 42/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP VỀ NUÔI CON 

Ngày 09 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 249/2021/TLST – HNGĐ, ngày 09/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi về việc “Ly hôn, tranh chấp  về nuôi  con”, theo  Quyết  định đưa vụ  án ra xét xử số  146/2021/QĐXXST – HNGĐ, ngày 28 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị P, sinh năm 1987. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Thái V, sinh năm 1984. Có mặt. Cùng trú tại: Thôn T, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 24/5/2021 và quá trình tố tụng, nguyên đơn Chị  Bùi Thị P trình bày:

Chị và Anh Nguyễn Thái V đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi ngày 18/11/2008. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến khoảng tháng 02/2020, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không cùng tiếng nói chung, không cùng quan điểm sống, không có sự cảm thông, chia sẻ. Anh V không có trách nhiệm với vợ, con dẫn đến vợ chồng thường xuyên cải vã, dần dần tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, ảnh hưởng đến việc học hành và tinh thần của con cái. Nay chị thấy mâu thuẫn vợ chồng là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn Anh Nguyễn Thái V.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Nhật Thảo N, sinh ngày 04/10/2012 và Nguyễn Tấn Đ, sinh ngày 14/01/2015, hiện đang sống với vợ chồng. Khi ly hôn, chị có nguyện vọng nhận nuôi cháu Nguyễn Tấn Đ, giao cháu Nguyễn Nhật Thảo N cho Anh V trực tiếp nuôi dưỡng, không yêu cầu Anh Nguyễn Thái V cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải   quyết.

Về nợ chung: Không có.

*Tại bản tự khai, Biên bản hòa giải ngày 28/8/2021 và tại phiên tòa, bị đơn   Anh Nguyễn Thái V trình bày:

Anh thống nhất với lời trình bày của Chị Bùi Thị P về kết hôn, con chung. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc. Năm 2015, anh đi xuất khẩu lao động nước ngoài, đến cuối năm 2019 anh về nước. Tháng 02/2020, anh vào làm việc tại Công ty Hòa Phát. Sau đó, anh phát hiện chị P có quan hệ ngoại tình với một người đàn ông khác, anh có khuyên nhủ nhưng chị P không thay đổi dẫn đến vợ chồng xảy ra mâu thuẫn thường xuyên. Nay anh thấy mâu thuẫn vợ chồng là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh đồng ý ly hôn Chị Bùi Thị P.

Về con chung: Khi ly hôn, anh có nguyện vọng được nhận nuôi 02 con chung. Hiện nay cháu Nguyễn Nhật Thảo N đang sống với anh, còn cháu Nguyễn Tấn Đ đang sống với chị P. Anh có công việc ổn định, hàng tháng thu nhập khoảng  10.000.000đồng nên đảm bảo đầy đủ cuộc sống cho con chung, trong khi chị P có công việc bấp bênh, đi đêm hôm mới về và bỏ bê con cái. Anh không yêu cầu chị P  cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải   quyết.

Về nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng   Ngãi tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung: Ghi nhận sự thuận tình ly hôn giữ chị P và anh V. Giao con chung Nguyễn Tấn Đ cho chị Phúc trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Nguyễn Nhật Thảo N cho Anh V trực tiếp nuôi dưỡng. Các đương sự không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xét. Chị Phúc phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Bùi Thị P có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa Chị Bùi Thị P và anh Anh Nguyễn Thái V là hợp pháp. Vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, cãi vã dẫn đến vợ chồng không còn quan tâm, tin tưởng lẫn nhau. Anh V và chị P đều có nguyên vọng được ly hôn. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị P và Anh V đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên ghi nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị P và anh V.

[3] Về con chung: Vợ chồng có hai người con chung là Nguyễn Nhật Thảo  N, sinh ngày 04/10/2012, hiện sống với Anh V và Nguyễn Tấn Đ, sinh ngày  14/01/2015, hiện sống với chị P. Xét hiện nay chị P làm nghề buôn bán tự do, không có công việc ổn định, còn Anh V làm việc ổn định tại Công ty Hòa Phát nhưng hạn chế về mặt thời gian nên không đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai con chung. Nếu giao cả hai con cho chị P hoặc Anh V trực tiếp nuôi dưỡng thì sẽ không đảm cho sự phát triển về mọi mặt của các con chung. Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cho chị P và anh V, mỗi người trực tiếp nuôi dưỡng mỗi cháu; giao cháu Nguyễn Tấn Đ cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Nguyễn Nhật Thảo N cho Anh V trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình. Chị P và Anh V không yêu  cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

[4] Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải   quyết.

[5] Về nợ chung: Không có.

[6] Về án phí: Chị P phải nộp 300.000đồng phí hôn nhân và gia đình sơ   thẩm   theo   quy   định   tại   điểm   a   khoản   5   Điều   27   Nghị   quyết   số  326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội nhưng chị được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

[7] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh  Quảng Ngãi phù hợp với nhận định trên, được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều  147; khoản 1 Điều 228;  khoản 1 Điều 235; Điều 266; Điều 267 và khoản 1 Điều  273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51; Điều 55; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật  Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Ghi nhận sự thuận tình ly hôn giữa Chị Bùi Thị P  và Anh Nguyễn Thái V.

2. Về con chung:

2.1. Giao con chung Nguyễn Tấn Đ, sinh ngày 14/01/2015 cho Chị Bùi Thị  P trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

2.1. Giao con chung Nguyễn Nhật Thảo N, sinh ngày 04/10/2012 cho Anh  Nguyễn Thái V trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

2.3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Bùi Thị P và Anh Nguyễn Thái V không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị Bùi Thị P và Anh Nguyễn Thái V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Khi cần thiết một trong hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải   quyết.

4. Về nợ chung: Không có.

5. Về án phí: Chị Bùi Thị P phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm   không có giá ngạch là 300.000đồng (ba trăm ngàn đồng), nhưng được khấu trừ toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2018/0003771 ngày 08/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

Anh Nguyễn Thái V có mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (09/9/2021). Chị Bùi Thị P vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30  Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp về nuôi con số 42/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:42/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Sơn - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;