Bản án về ly hôn, tranh chấp quyền nuôi con và cấp dưỡng nuôi con số 08/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 08/2022/HNGĐ-ST NGÀY 04/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP QUYỀN NUÔI CON VÀ CẤP DƯỠNG NUÔI CON

Ngày 04 tháng 3 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 241/2021/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 11 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp quyền nuôi con và cấp dưỡng nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Trúc M ,sinh năm 1993(có đơn xin vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp SB, xã B, thành phố T, tỉnh Trà Vinh.

Bị đơn: Ông Nguyễn Hoàng N, sinh năm 1992 (có đơn xin vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp VH, xã B, thành phố T, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 15 tháng 10 năm 2021 và lời trình bày của bà Nguyễn Thị Trúc M trong quá trình giải quyết vụ án: Vào năm 2012 bà và ông Nguyễn Hoàng N tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn vào ngày 26/7/2013 tại Ủy ban nhân dân xã B, thành phố T, tỉnh Trà Vinh, giấy chứng nhận kết hôn số:

151/2013, quyển số 01/2013. Sau khi kết hôn thì cuộc sống vợ chồng của ông bà tương đối hạnh phúc nhưng sau đó đến năm 2020 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng đến nay, cuộc sống gia đình không hạnh phúc, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng ý kiến, ông N không lo cho gia đình, không quan tâm vợ con, vợ chồng thường xuyên cải nhau, nhiều lần hàn gắn nhưng không thành. Vợ chồng đã ly thân từ cuối năm 2020 đến nay. Nhận thấy tình cảm không còn nên bà Nguyễn Thị Trúc M yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Hoàng N.

Về con chung: Trong thời gian chung sống vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Phúc T, sinh ngày 26/9/2013 và Nguyễn Phúc A, sinh ngày 01/12/2015 hiện đang sống chung với bà M, bà yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng và yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu, mỗi tháng là 1.000.000 đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi.Về tài sản chung, nợ chung: Bà M khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Nguyễn Hoàng N mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải nhưng vắng mặt không có lý do nên không có lời trình bày. Tại phiên tòa hôm nay, ông N vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

Vị đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

1. Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật Tố tụng dân sự của Thẩm phán về việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến trước khi xét xử; việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử và Thư ký tại phiên tòa sơ thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Trúc M, bị đơn ông Nguyễn Hoàng N vắng mặt và có đơn xin vắng mặt. Đề nghị Tòa án căn cứ các Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

2. Về nội dung vụ án: Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Tòa án nhân dân thành phố T đã thụ lý và giải quyết vụ án đúng theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tôt tụng dân sự năm 2015; về quan hệ hôn nhân bà M, ông N kết hôn và có đăng ký kết hôn nên hôn nhân của ông bà là hợp pháp, mâu thuẫn giữa bà M, ông N là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên xét yêu cầu ly hôn của bà M là có căn cứ, đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của bà M; về con chung bà M yêu cầu được nuôi dưỡng, xét khi ly thân thì bà M vẫn đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nên đề nghị Tòa án giao con chung tên Nguyễn Phúc T, sinh ngày 26/9/2013 và Nguyễn Phúc A, sinh ngày 01/12/2015 cho bà M tiếp tục nuôi dưỡng và theo nguyện vọng của con chung; về cấp dưỡng nuôi con bà M yêu cầu ông N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu, mối tháng là 1.000.000 đồng cho đến khi hai con đủ 18 tuổi. Xét việc cấp dưỡng nuôi con khi cha mẹ ly hôn phải căn cứ vào chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng, học hành của con và khả năng của mỗi bên nên việc bà M yêu cầu ông N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu, mỗi tháng 1.000.000 đồng là phù hợp với chi phí tối thiểu với việc nuôi con chung nên đề nghị Tòa án chấp nhận; về tài sản chung, nợ chung bà M khai không có, không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết; về án phí buộc bà M, ông N phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh luận tại phiên tòa Tòa án nhân định:

[1] Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị Trúc M yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Hoàng N và yêu cầu giải quyết quyền nuôi con, cấp dưỡng nuôi con. Đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình và quan hệ tranh chấp là ly hôn, tranh chấp quyền nuôi con và cấp dưỡng nuôi con. Theo quy định tại các Điều 28, 35 và 39 của Bộ Luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn bà Nguyễn Thị Trúc M và bị đơn ông Nguyễn Hoàng N có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Nội dung yêu cầu của đương sự:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Trúc M và ông Nguyễn Hoàng N tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn ngày 26/7/2013 tại Ủy ban nhân dân xã B, thành phố T, tỉnh Trà Vinh, giấy chứng nhận kết hôn số 151/2013, quyển số 01/2013, nên bà M và ông N đã xác lập quan hệ hôn nhân theo đúng quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Qua đơn khởi kiện, lời trình bày của bà M trong quá trình giải quyết vụ án nhận thấy trong quá trình chung sống giữa bà M và ông N đã xảy ra bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên cự cải, vợ chồng không quan tâm chăm sóc lẫn nhau, không cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Cuộc sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn từ năm 2020, mâu thuẫn càng trầm trọng. Tại phiên tòa hôm nay bà M có đơn xin vắng mặt và giữ yêu cầu ly hôn với ông N còn ông N mặc dù được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia hòa giải để hàn gắn gia đình nhưng ông N vắng mặt. Tại phiên tòa hôm nay, ông N có đơn xin vắng mặt và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Từ những căn cứ trên xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Nguyễn Thị Trúc M và ông Nguyễn Hoàng N là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó bà M yêu cầu được ly hôn với ông N là có cơ sở chấp nhận.

Về con chung: Bà Nguyễn Thị Trúc M và ông Nguyễn Hoàng N có 02 con chung tên Nguyễn Phúc T, sinh ngày 26/9/2013 và Nguyễn Phúc A, sinh ngày 01/12/2015 hiện tại đang sống chung với bà M. Xét thấy, sau khi bà M ông N ly thân, cháu T và cháu A sống với bà M, bà vẫn đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chung nên chấp nhận yêu cầu của bà M giao con chung cho bà M tiếp tục nuôi dưỡng và theo nguyện vọng của con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Nguyễn Thị Trúc M yêu cầu ông Nguyễn Hoàng N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung tên Nguyễn Phúc T, sinh ngày 26/9/2013 và Nguyễn Phúc A, sinh ngày 01/12/2015 mỗi cháu, mối tháng là 1.000.000 đồng cho đến khi hai con đủ 18 tuổi. Xét việc cấp dưỡng nuôi con khi cha mẹ ly hôn phải căn cứ vào chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng, học hành của con và khả năng của mỗi bên. Bà M yêu cầu ông N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu, mỗi tháng 1.000.000 đồng, ông N nhận được thông báo thụ lý của Tòa án không có ý kiến và mức cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu, mỗi tháng 1.000.000 đồng là phù hợp nên có căn cứ chấp nhận.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà Nguyễn Thị Trúc M khai không có, không yêu cầu nên Tòa án không đặt ra giải quyết.

[3] Xét đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T có căn cứ chấp nhận.

[4] Về án phí: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội bà M, ông N phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Các Điều 51, 53, 56, 57, 58 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Trúc M.

1. Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Trúc M được ly hôn với ông Nguyễn Hoàng N.

2. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Phúc T, sinh ngày 26/9/2013 và Nguyễn Phúc A, sinh ngày 01/12/2015 cho M được tiếp tục nuôi dưỡng và theo nguyện vọng của con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con: Buộc ông Nguyễn Hoàng N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung tên Nguyễn Phúc T, sinh ngày 26/9/2013 và Nguyễn Phúc A, sinh ngày 01/12/2015, mỗi cháu, mỗi tháng là 1.000.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, thời gian cấp dưỡng từ ngày 05/3/2022.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị Trúc M khai không có không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

4. Về nợ chung: Bà Nguyễn Thị Trúc M không có nợ chung không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Trúc M phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm số tiền 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà Nguyễn Thị Trúc M đã nộp 300.000 đồng, theo biên lai số 0007395, ngày 02 tháng 11 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T nên bà Nguyễn Thị Trúc M không phải nộp tiếp.

Buộc ông Nguyễn Hoàng N phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con, nộp tại Chi cục thi hành án dân sự.

6. Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt thì được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Trường hợp bản án, quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp quyền nuôi con và cấp dưỡng nuôi con số 08/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:08/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Trà Vinh - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;