TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 04/2023/HNGĐ-ST NGÀY 10/03/2023 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI DƯỠNG CON CHUNG KHI LY HÔN
Ngày 10 tháng 3 năm 2023. Tại trụ sở Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 211/2022/TLST - HNGĐ ngày 25 tháng 11 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi dưỡng con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2023/QĐXXST - HNGĐ ngày 23 tháng 02 năm 2023 giữa các đương sự:
1- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn V; Sinh năm 1987.
Địa chỉ: Tổ dân phố P3, thị trấn P, huyện B, tỉnh Lào Cai - Có mặt tại phiên tòa.
2- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Ph.
Địa chỉ: Tổ dân phố P3, thị trấn P, huyện B, tỉnh Lào Cai – Vắng mặt tại phiên tòa (Đã có đơn xin xét xử và giải quyết vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 22/11/2022 và các bản tự khai của anh Nguyễn Văn V, chị Nguyễn Thị Ph cùng toàn bộ tài liệu chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án thì anh Nguyễn Văn V và chị Nguyễn Thị Ph đều xác nhận anh, chị kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện B, tỉnh Lào Cai vào thời gian ngày 13/02/2017. Sau ngày kết hôn vợ chồng về chung sống hoà thuận hạnh phúc đến tháng 6/2021 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính dẫn đến việc anh Nguyễn Văn V làm đơn xin ly hôn chị Nguyễn Thị Ph là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm trong làm ăn và tạo dựng cuộc sống gia đình, nuôi dậy con cái, dẫn đến vợ chồng cãi vã nhau, thiếu sự tôn trọng đối với bản thân và đôi bên gia đình. Khi mâu thuẫn sảy ra vợ chồng đã được gia đình, anh em khuyên giải nhiều lần nhưng đều không có kết quả. Thực tế vợ chồng đã tự sống ly thân từ tháng 6/2021 cho đến nay và hiện tại chị Nguyễn Thị Ph đã bỏ về ở với gia đình mẹ đẻ tại thôn An Thái, xã An Vĩ, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên cho đến nay không ai quan tâm thăm hỏi gì nhau và cũng không có trách nhiệm gì với nhau nữa. Đến nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, anh Nguyễn Văn V có yêu cầu và nguyện vọng xin được ly hôn với chị Nguyễn Thị Ph. Chị Nguyễn Thị Ph cũng nhất trí ly hôn với anh Nguyễn Văn V với lý do tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng không thể khắc phục được.
Về con chung: Anh Nguyễn Văn V và chị Nguyễn Thị Ph đều xác nhận anh, chị chung sống với nhau đến nay đã có 02 con chung.
Cháu lớn: Nguyễn Bảo Ng - Sinh ngày: 12/4/2017;
Cháu thứ hai: Nguyễn Kim Ng - Sinh ngày: 10/7/2020.
Hiện nay các cháu đều khỏe mạnh phát triển bình thường không ốm đau bệnh tật gì và hiện tại cháu lớn đang ở với anh Nguyễn Văn V tại Tổ dân phố P3, thị trấn P, huyện B, tỉnh Lào Cai, còn cháu nhỏ đang ở cùng với chị Nguyễn Thị Ph tại gia đình bà ngoại tại thôn An Thái, xã An Vĩ, huyện Khoái Châu, tỉnh tỉnh Hưng Yên. Khi ly hôn anh Nguyễn Văn V và chị Nguyễn Thị Ph thỏa thuận để anh Nguyễn Văn V được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Bảo Ng và để chị Nguyễn Thị Ph được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Kim Ng cho đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Không bên nào phải cấp dưỡng tiền nuôi dưỡng con chung.
Về tài sản chung: Anh Nguyễn Văn V và chị Nguyễn Thị Ph đều xác nhận trong thời gian chung sống anh, chị chưa tạo dựng được tài sản gì chung . Nên khi ly hôn anh, chị đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về công nợ chung: Anh Nguyễn Văn V và chị Nguyễn Thị Ph xác nhận trong thời gian chung sống anh, chị không vay mượn gì của ai và cũng không cho ai vay mượn gì. Nên anh, chị đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành thông báo phiên họp, kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhiều lần nhưng chị Nguyễn Thị Ph đều vắng mặt không có lý do. Do vậy vụ án này Tòa án không tiến hành hòa giải được.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm vấn công khai tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy:
[1]. Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Văn V và chị Nguyễn Thị Ph kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện B, tỉnh Lào Cai ngày 13/02/2017. Đây là một hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau ngày kết hôn vợ chồng về chung sống hoà thuận hạnh phúc đã có 02 con chung, đến tháng 6/2021 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến việc anh Nguyễn Văn V làm đơn xin ly hôn chị Nguyễn Thị Ph là do quan điểm, cách sống của vợ chồng không thống nhất với nhau trong việc làm ăn phát triển kinh tế gia đình, nuôi dậy con, dẫn đến vợ chồng thường xuyên sảy ra cãi vã nhau, thiếu sự tôn trọng đối với bản thân và đôi bên gia đình, cuộc sống chung không hạnh phúc. Thực tế vợ chồng đã tự sống ly thân từ tháng 6/2021 cho đến nay. Trong thời gian này vợ chồng không quan tâm gì đến nhau và cũng không có trách nhiệm gì với nhau nữa. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn ngày 22/11/2022 anh Nguyễn Văn V làm đơn khởi kiện xin được ly hôn với chị Nguyễn Thị Ph.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại các bản tự khai của chị Nguyễn Thị Ph cũng xác nhận mâu thuẫn của vợ chồng như anh Nguyễn Văn V đã trình bầy và thực tế vợ chồng đã tự sống ly thân từ tháng 6/2021 cho đến nay và hiện tại chị Nguyễn Thị Ph đã bỏ về ở với gia đình mẹ đẻ tại thôn An Thái, xã An Vĩ, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên cho đến nay không ai quan tâm thăm hỏi gì nhau và cũng không có trách nhiệm gì với nhau nữa. Đến nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, anh Nguyễn Văn V có yêu cầu và nguyện vọng xin được ly hôn với chị Nguyễn Thị Ph. Chị Nguyễn Thị Ph cũng nhất trí ly hôn với anh Nguyễn Văn V với lý do tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng không thể khắc phục được.
Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành thông báo phiên họp, kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án nhiều lần nhưng chị Nguyễn Thị Ph đều vắng mặt và có đơn đề nghị giải quyết và xét xử vắng mặt. Do vậy vụ án này Tòa án không tiến hành hòa giải được và phải đưa vụ án ra xét xử theo trình tự quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa hôm nay anh Nguyễn Văn V vẫn giữ nguyên quan điểm xin được ly hôn đối với chị Nguyễn Thị Ph với lý do tình cảm vợ chồng không còn mâu thuẫn đã trầm trọng không thể khắc phục được.
Xét yêu cầu của anh Nguyễn Văn V tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp với các qui định tại Khoản 1 Điều 56 luật hôn nhân và gia đình Việt Nam. Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Văn V.
[2].Về con chung: Tại phiên tòa hôm nay và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án anh Nguyễn Văn V và chị Nguyễn Thị Ph đều xác nhận: Anh, chị chung sống với nhau đến nay đã có 02 con chung Cháu lớn: Cháu lớn: Nguyễn Bảo Ng - Sinh ngày: 12/4/2017; Cháu thứ hai: Nguyễn Kim Ng - Sinh ngày: 10/7/2020. Hiện nay các cháu đều khỏe mạnh phát triển bình thường không ốm đau bệnh tật gì và hiện tại cháu lớn đang ở với anh Nguyễn Văn V tại Tổ dân phố P3, thị trấn P, huyện B, tỉnh Lào Cai, còn cháu nhỏ đang ở cùng với chị Nguyễn Thị Ph tại gia đình bà ngoại tại thôn An Thái, xã An Vĩ, huyện Khoái Châu, tỉnh tỉnh Hưng Yên. Khi ly hôn anh Nguyễn Văn V đề nghị giải quyết để anh Nguyễn Văn V được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Bảo Ng và để chị Nguyễn Thị Ph được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Kim Ng cho đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Không bên nào phải cấp dưỡng tiền nuôi dưỡng con chung.
Xét yêu cầu của anh Nguyễn Văn V tại phiên tòa về việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là có căn cứ. Bởi lẽ bản thân anh và chị Nguyễn Thị Ph đều có thu nhập ổn định và đều có đủ điều kiện để chăm sóc nuôi dưỡng các cháu cho đến khi các cháu trưởng thành. Do vậy để đảm bảo sự ổn định cho các cháu về tâm lý cũng như trong sinh hoạt và quyền lợi về mọi mặt của các cháu.
Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Văn V tại phiên tòa về việc nuôi dưỡng con chung và giao cháu Nguyễn Bảo Ng cho anh Nguyễn Văn V trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và giao cháu Nguyễn Kim Ng cho chị Nguyễn Thị Ph trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.
[3]Về tài sản chung: Anh Nguyễn Văn V và chị Nguyễn Thị Ph đều xác nhận trong thời gian chung sống anh, chị chưa tạo dựng được tài sản gì chung. Nên khi ly hôn anh, chị đều không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[4] Về công nợ chung: Anh Nguyễn Văn V và chị Nguyễn Thị Ph trong quá trình giải quyết vụ án anh, chị đều xác nhận trong thời gian chung sống anh, chị không vay mượn gì của ai và cũng không cho ai vay mượn gì. Nên khi ly hôn anh, chị đều không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[5]. Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam; Khoản 4 Điều 147; Khoản 1 Điều 227, Khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Văn V ly hôn với chị Nguyễn Thị Ph.
2. Về con chung: Xử giao cháu Nguyễn Bảo Ng; Sinh ngày: 12/4/2017 cho anh Nguyễn Văn V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; Giao cháu Nguyễn Kim Ng; Sinh ngày: 10/7/2020 cho chị Nguyễn Thị Ph trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Không bên nào phải cấp dưỡng tiền nuôi dưỡng con chung.
Sau khi ly hôn, anh Nguyễn Văn V và chị Nguyễn Thị Ph có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.
3.Về án phí: Anh Nguyễn Văn V phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0003134 ngày 25/11/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Lào Cai.
Xác nhận anh Nguyễn Văn V đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm, báo cho nguyên đơn biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự;
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 04/2023/HNGĐ-ST về ly hôn, tranh chấp nuôi dưỡng con chung khi ly hôn
Số hiệu: | 04/2023/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bát Xát - Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 10/03/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về