Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con và cấp dưỡng số 06/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DUYÊN HẢI, TỈNH TRÀ VINH

 BẢN ÁN 06/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/03/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON VÀ CẤP DƯỠNG

Trong ngày 22 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Duyên Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 223/2020/TLST-HNGĐ, ngày 20 tháng 10 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con và cấp dưỡng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 02 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2021/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Châu Thị Thùy Tr, sinh ngày 29-8-2000. (có mặt) Địa chỉ: Ấp Ph, xã L, huyện D, tỉnh Tr.

- Bị đơn: Anh Lê Duy Kh, sinh ngày 12-8-1993. (vắng mặt) Địa chỉ cư trú: Ấp C, xã L, huyện D, tỉnh Tr

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 17/8/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Châu Thị Thùy Tr trình bày: Vào năm 2017 chị và anh Lê Duy Kh hai bên tự nguyện tiến tới hôn nhân và có đăng ý kết hôn vào ngày 22/10/2018 tại Ủy ban nhân dân xã Long Khánh, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. Sau khi kết hôn vợ chồng sinh sống tại ấp C, xã L, huyện D, tỉnh Tr. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian đến đầu năm 2020 thì phát sinh mâu thuẩn, thường xuyên cự cãi với nhau do anh Lê Duy Kh không quan tâm chăm sóc vợ con, không lo làm ăn suốt ngày chỉ mê chơi nên chị bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống và vợ chồng ly thân từ đó cho cho đến nay. Nhận thấy tình trạng hôn nhân không thể kéo dài, vợ chồng đã ly thân từ tháng 02/2020 đến nay và không tạo điều kiện hàn gắn nên chị yêu cầu được ly hôn anh Lê Duy Kh. Về con chung: Lê Duy Kh, sinh ngày 25-7-2018 hiện đang sống chung với chị, khi ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp nuôi con, yêu cầu anh Lê Duy Kh cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 (Hai triệu) đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi. Về tài sản chung không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung không có, không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn anh Lê Duy Kh đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần tham gia tố tụng để giải quyết vụ án nhưng vẫn vắng mặt không lý do và không cung cấp lời khai, văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên không có lời trình bày.

Tại phiên tòa hôm nay:

Nguyên đơn chị Châu Thị Thùy Tr vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn anh Lê Duy Kh. Về con chung chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Lê Duy Khang, sinh ngày 25-7-2018, yêu cầu anh Lê Duy Kh cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 (Hai triệu) đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi. Về tài sản chung không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung không có, không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn anh Lê Duy Kh đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tại phiên tòa lần thứ nhất và tại phiên tòa hôm nay nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, Tòa án căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Lê Duy Kh.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Vụ án được thụ lý đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định đúng tư cách của những người tham gia tố tụng, Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ và hòa giải đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định về phiên tòa sơ thẩm. Về nội dung vụ án, tình trạng hôn nhân giữa chị Châu Thị Thùy Tr và anh Lê Duy Kh đã mâu thuẩn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện cho chị Tr được ly hôn anh Kh. Về con chung Lê Duy Kh, sinh ngày 25-7-2018, xét thấy từ khi chị Tr và anh Kh ly thân cho đến nay thì cháu Khang vẫn do chị Tr trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và xét các tình tiết về mức thu nhập của người lao động phổ thông trên địa bàn xã L, tuổi của con chung và hoàn cảnh sống của các bên nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình giao cháu Khang cho chị Tr được tiếp tục nuôi dưỡng và buộc anh Lê Duy Kh phải cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật cho đến khi cháu Kh đủ 18 tuổi. Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết về án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa và căn cứ vào diễn biến tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn anh Lê Duy Kh có nơi cư trú tại ấp C, xã Long Kh, huyện D, tỉnh Tr nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Xét đơn khởi kiện của chị Châu Thị Thùy Tr có nội dung yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con và cấp dưỡng là quan hệ tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[3] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Lê Duy Kh đã được Tòa án nhân dân huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Lê Duy Kh là đúng quy định của pháp luật.

[4] Về hôn nhân: Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Châu Thị Thùy Tr, Hội đồng xét xử thấy rằng chị Tr và anh Kh tự nguyện tiến tới hôn nhân có đăng ký kết hôn đúng theo quy định pháp luật nên quan hệ hôn nhân giữa chị Tr và anh Kh là hợp pháp. Tuy nhiên, trong thời gian chung sống không hạnh phúc và hiện đã sống ly thân, trong thời gian sống ly thân chị Tr và anh Kh cũng không quan tâm đến cuộc sống của nhau và không có biện pháp để hàn gắn cuộc sống vợ chồng nên Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chị Châu Thị Thùy Tr về việc xin ly hôn anh Lê Duy Kh.

[5] Về con chung: Chị Châu Thị Thùy Tr và anh Lê Duy Kh có 01 con chung là Lê Duy Khang, sinh ngày 25-7-2018, thấy rằng từ khi chị Tr và anh Kh ly thân cho đến nay thì cháu Kh vẫn do chị Tr trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần, nên căn cứ Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Kh cho chị Tr được tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật.

[6] Về cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên tòa hôm nay, chị Châu Thị Thùy Tr vẫn giữ nguyên yêu cầu buộc anh Lê Duy Kh cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định pháp luật với một khoản tiền hàng tháng là 2.000.000 đồng cho đến khi cháu Khang đủ 18 tuổi.

Xét các tài liệu thu thập được về mức thu nhập, tuổi của con chung và hoàn cảnh sống của trẻ em trong giai đoạn hiện nay, trên cơ sở quy định của pháp luật Hội đồng xét xử thấy trách nhiệm nuôi con là của chung hai vợ chồng do vậy cần buộc anh Lê Duy Kh có nghĩa vụ đóng góp cấp dưỡng nuôi con theo quy định. Tuy nhiên, xét không có tài liệu chứng minh anh Lê Duy Kh có công ăn việc làm ổn định cũng như mức thu nhập cụ thể nên cần dựa vào mức thu nhập bình quân của lao động phổ thông trên địa bàn xã L năm 2021 để xem xét. Căn cứ vào mức thu nhập của đương sự trình bày; mức thu nhập lao động phổ thông trên địa bàn xã L là 54.200.000 đồng trên mỗi lao động (tương đương 4.516.000 đồng/tháng/người) và điều kiện tối thiểu để nuôi dưỡng cháu Khang trong điều kiện xã hội hiện tại nên cần buộc anh Lê Duy Kh phải cấp dưỡng nuôi con chung là cháu Lê Duy Kh, sinh ngày 25-7-2018 mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi cháu Kh đủ 18 tuổi, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật là phù hợp.

[7] Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[8] Về nợ chung: Đương sự trình bày không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[9] Về án phí: Chị Châu Thị Thùy Tr phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Anh Lê Duy Kh phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Châu Thị Thùy Tr.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Châu Thị Thùy Tr được ly hôn anh Lê Duy Kh.

Về con chung: Chị Châu Thị Thùy Tr được tiếp tục nuôi dưỡng con chung Lê Duy Khang, sinh ngày 25-7-2018.

Về cấp dưỡng nuôi con: Buộc anh Lê Duy Kh có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con là cháu Lê Duy Khang, sinh ngày 25-7-2018 mỗi tháng 1.000.000 (Một triệu) đồng. Thời gian cấp dưỡng từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật cho đến khi cháu Khang đủ 18 tuổi.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi đối với số tiền chậm thi hành án theo mức quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Không ai được ngăn cản việc thăm nom, gặp gỡ con chung.

Vì lợi ích của con, khi cần thiết và có yêu cầu của các bên Tòa án có thể thay đổi người nuôi con.

Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Về nợ chung: Đương sự trình bày không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Về án phí: Buộc chị Châu Thị Thùy Tr phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị Tr đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0000596 ngày 16 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Duyên Hải. Anh Lê Duy Kh phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án sơ thẩm nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con và cấp dưỡng số 06/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Duyên Hải - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;