TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LĂK
BẢN ÁN 88/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 29 tháng 9 năm 2022 tại Phòng xử án - Toà án nhân dân huyện Ea H’Leo xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 259/2022/TLST – HN&GĐ, ngày 05 tháng 7 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 95/2022/QĐXX- HNGĐ, ngày 26 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 68/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 13/9/2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Hồng N, sinh năm 1994; địa chỉ: Thôn A, xã E, huyện H, tỉnh Đắk Lắk (đề nghị xét xử vắng mặt).
- Bị đơn: Anh Phạm H, sinh năm 1991; địa chỉ: Thôn A, xã E, huyện H, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình làm việc nguyên đơn chị Lê Thị Hồng N trình bày:
Tôi và anh H quen biết, tìm hiểu và về chung sống với nhau từ năm 2017, có đi đăng ký kết hôn tại UBND xã D, huyện H, tỉnh Đắk Lắk. Chúng tôi kết hôn và về chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, không bị ai ép buộc. Chúng tôi chung sống hạnh phúc đến khoảng năm 2019, sau đó thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hoà hợp với nhau, bất đồng quan điểm sống trong sinh hoạt hàng ngày và về cách nuôi dạy con cái. Dẫn đến thường xuyên cãi vã, thậm chí đánh nhau. Cảm thấy cuộc sống vợ chồng mâu thuẫn ngày càng căng thẳng, tình cảm vợ chồng bắt đầu đi xuống, hôn nhân không còn hạnh phúc. Hai vợ chồng cũng nhiều lần trao đổi, tìm cách giải quyết nhưng không được. Đến nay, tôi không còn tình cảm nên đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh Phạm H.
Về con chung: Trong quá trình chung sống với nhau, chúng tôi có 01 con chung là cháu: Phạm Lê Nhật Y, sinh ngày 22/6/2018. Nếu ly hôn thì tôi có nguyện vọng được chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Huy đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi. Tôi không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và công nợ chung: Chúng tôi tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề tài sản và công nợ chung.
Quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Phạm H, để anh H đến Toà án trình bày về những vấn đề liên quan đến việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, anh H vẫn vắng mặt không có lý do nên Toà án không ghi nhận được ý kiến.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Việc Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo thụ lý vụ án khởi kiện ly hôn là đúng thẩm quyền. Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và những người tiến hành tố tụng, nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt không có lý do.
Về nội dung: Chị Lê Thị Hồng N và anh Phạm H chung sống với nhau vào năm vào năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã D, huyện H, tỉnh Đắk Lắk.
Về mâu thuẫn của vợ chồng, Tòa án đã xác minh về tình trạng hôn nhân giữa anh chị và có kết quả là vợ chồng mâu thuẫn, cãi cọ lẫn nhau, hiện nay không còn sống chung với nhau. Nay chị N không còn tình cảm với anh H nữa, nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn. Xét yêu cầu của chị N là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận chị Lê Thị Hồng N và anh Phạm H được ly hôn.
Về con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Phạm Lê Nhật Y, sinh ngày 22/6/2018. Chị N có nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu Y, còn anh H trong quá trình giải quyết vụ án không ghi nhận được ý kiến của anh H nên đề nghị Hội đồng xét xử giao cho chị N nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi.
Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Lê Thị Hồng N không yêu cầu nên không giải quyết.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị Lê Thị Hồng N không yêu cầu nên không giải quyết.
Về án phí: Chị Lê Thị Hồng N phải chịu toàn bộ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về thủ tục tố tụng: Chị Lê Thị Hồng N khởi kiện ly hôn với anh Phạm H, Tòa án thụ lý giải quyết là phù hợp với Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
Nguyên đơn đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên toà. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.
[2]. Về nội dung:
[2.1]. Chị Lê Thị Hồng N và anh Phạm H tự nguyện kết hôn từ năm 2017, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại UBND xã D, huyện H, tỉnh Đắk Lắk. Chung sống hạnh phúc với nhau được một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hoà hợp với nhau, bất đồng quan điểm sống trong sinh hoạt hàng ngày và về cách nuôi dạy con cái. Dẫn đến thường xuyên cãi vã, thậm chí đánh nhau. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập để Hòa giải về tình cảm vợ chồng nH anh H không tham gia tố tụng nên Toà án không ghi nhận được ý kiến của anh H. Tuy nhiên, qua xác minh về tình trạng hôn nhân của chị N và anh H tại địa phương thì được biết vợ chồng mâu thuẫn, cãi cọ lẫn nhau, thời gian gần đây chị N đã không chung sống cùng với anh Phạm H.
Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, kết quả hôn nhân không đạt được, anh chị không còn yêu thương, chăm sóc, quý trọng lẫn nhau, nếu tiếp tục chung sống cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai người. Nên cần chấp nhận đơn khởi kiện của chị N. Cần giải quyết công nhận cho chị Lê Thị Hồng N được ly hôn với anh Phạm H.
[2.2]. Về con chung: Anh chị có 01 người con chung là cháu Phạm Lê Nhật Y, sinh ngày 22/6/2018. Hiện nay, cháu Y đang do chị N chăm sóc, nuôi dưỡng, chị N cũng có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung, còn anh H trong quá trình giải quyết vụ án không ghi nhận được ý kiến của anh H nên cần giao cháu Huy cho chị N nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi.
[2.3]. Về cấp dưỡng: Chị Lê Thị Hồng N không yêu cầu nên không giải quyết.
[2.4]. Về tài sản chung và các khoản nợ: Chị Lê Thị Hồng N và anh Phạm H không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về án phí: Chị Lê Thị Hồng N phải chịu toàn bộ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 3 Điều 144, khoản 4 Điều 147, Điều 227, 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; Các Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Tuyên xử:
1. Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Lê Thị Hồng N. Chị Lê Thị Hồng N được ly hôn với anh Phạm H.
2. Về con chung: Giao cho chị Lê Thị Hồng N nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu Phạm Lê Nhật Y, sinh ngày 22/6/2018 cho đến khi đủ 18 tuổi.
Vì lợi ích của con, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Phạm H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Lê Thị Hồng N không yêu cầu nên không giải quyết.
4. Về tài sản chung và các khoản nợ: Chị Lê Thị Hồng N và anh Phạm H không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
5. Về án phí: Chị Lê Thị HồngN phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm, số tiền này được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà chị Lê Thị Hồng N đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk theo biên lai số: AA/2021/0010518, ngày 01 tháng 7 năm 2022.
6. Về quyền kháng cáo: Chị Lê Thị Hồng N và anh Phạm H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án 88/2022/HNGĐ-ST về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 88/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/09/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về