Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 83/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 83/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 08 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 232/2022/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 6 năm 2022 về việc “tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 88/2022/QĐXXST – HNGĐ ngày 19 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: ChPốt Thị N, sinh năm 1995; (Vắng mặt) Cư trú tại: Tổ A, ấp Hiệp P, xã Hòa T, huyện C T, tỉnh Tây Ninh.

- Bị đơn: Anh Unh S, sinh năm 1991 (vắng mặt).

Cư trú tại: Tổ A, ấp Hiệp P, xã Hòa T, huyện C T, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 16 tháng 6 năm 2022 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Pốt Thị N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Unh S chung sống với Nu vào năm 2012 đến ngày 01/3/2013 có đăng ký kết hôn tại UBND xã Hòa T, huyện C T, tỉnh Tây Ninh. Từ ngày đăng ký kết hôn vợ chồng chị chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân: Do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cải Nu, anh Unh S thường xuyên đi uống rượu về kiếm chuyện chửi chị, có lần bóp cổ chị có mẹ chồng chị chứng kiến, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn được. Vợ chồng chị ly thân tình đến nay khoảng 05 tháng. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị xin ly hôn với anh Unh S.

Về con chung: Vợ chồng chị có 02 con chung tên Unh Khanh D, sinh ngày 02/01/2013 và Unh N T, sinh ngày 30/4/2015 hiện nay cháu đang sống chung nhà với chị và anh Unh S. Chị yêu cầu được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung tên Unh Khanh D, sinh ngày 02/01/2013. Giao con chung tên Unh N T, sinh ngày 30/4/2015 cho anh Unh S nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nợ chung: Không có, không nợ bất kỳ tổ chức tín dụng nào, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn anh Unh S trình bày trong biên bản lấy lời khai ngày 15/8/2022: Anh và chị Pốt Thị N chung sống với Nu vào năm 2012 đến ngày 01/3/2013 có đăng ký kết hôn tại UBND xã Hòa Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Vợ chồng anh chung sống hạnh phúc không mâu thuẫn như chị Pốt Thị N trình bày. Anh đi làm tài xế lái máy cày thu nhập mỗi tháng hơn 7.000.000 đồng, mỗi tháng anh đều đưa tiền cho chị Pốt Thị N sinh hoạt trong gia đình. Nay chị Pốt Thị N cho rằng anh thường xuyên đi uống rượu và đánh đập chị là không đúng, chỉ có 01 lần khi anh đang gây gỗ với người khác thì chị Pốt Thị N đến ngăn cản nên tát vào mặt anh một cái nên anh đánh lại chị N lúc này có mẹ anh chứng kiến. Chị Pốt Thị N bỏ nhà đi đến nay khoảng 5 tháng. Nay chị Pốt Thị N làm đơn xin ly hôn với anh, thì anh không đồng ý ly hôn vì còn thương vợ con.

Về con chung: Vợ chồng anh có 02 con chung tên Unh Khanh D, sinh ngày 02/01/2013 và Unh N T, sinh ngày 30/4/2015. Anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Unh N T, sinh ngày 30/4/2015. Giao con chung tên Unh Khanh D, sinh ngày 02/01/2013 cho chị Pốt Thị N nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung: Không yêu cầu Toà án giải quyết.

Nợ chung: Anh xác định không nợ ai nên anh không yêu cầu Toà án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo thủ tục tố tụng dân sự, không có vi phạm. Các đương sự tham gia tố tụng trong vụ án chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Xét thấy yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận cho chị Pốt Thị N và anh Unh S được ly hôn. Về con chung: Giao cho anh Unh S trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Unh N T, sinh ngày 30/4/2015. Giao cho chị Pốt Thị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Unh Khanh D, sinh ngày 02/01/2013, không ai phải cấp dưỡng nuôi con. Ghi nhận tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết, nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà và ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về tố tụng: Chị Pốt Thị N và anh Unh S có đơn xin xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt chị Pốt Thị N, anh Unh S.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Pốt Thị N và anh Unh S chung sống với nhau năm 2012 đến ngày 01/3/2013 đăng ký kết hôn tại UBND xã Hòa Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

[3]. Về mâu thuẫn của vợ chồng: Chị Pốt Thị N trình bày: Trong quá trình sống chung chị Pốt Thị N và anh Unh S thường bất đồng ý kiến, không đồng chung quan điểm, anh Unh S thường xuyên uống rượu về chửi bới, đánh đập chị, có lần bóp cổ chị, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn được. Vợ chồng chị ly thân tình đến nay khoảng 05 tháng. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị xin ly hôn với anh Unh S. Anh Unh S cũng thừa nhận anh có đánh chị Pốt Thị N, vợ chồng anh ly thân đến nay khoảng 5 tháng. Lời khai của anh Unh S phù hợp với lời khai của chị Pốt Thị N cũng như lời khai của các nhân chứng có trong hồ sơ vụ án đều khai anh Unh S thường xuyên đi uống rượu về chửi, đánh chị Pốt Thị N. Từ đó cho thấy tình trạng hôn nhân giữa chị Pốt Thị N và anh Unh S đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị Pốt Thị N và anh Unh S đã ly thân tính tới ngày xét xử khoảng 05 tháng. Hội đồng xét xử xét thấy cho chị Pốt Thị N và anh Unh S ly hôn theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là có căn cứ.

[4]. Về con chung: Vợ chồng anh chị có 02 con chung tên Unh Khanh D, sinh ngày 02/01/2013 và Unh N T, sinh ngày 30/4/2015. Qua lời khai của cháu Duy thì cháu Duy có nguyện vọng sống với chị Pốt Thị N. Cháu Unh N T có nguyện vọng sống với anh Unh S.

Hi đồng xét xử thấy cần giao con chung tên Unh N T, sinh ngày 30/4/2015 cho anh Unh S trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Giao con chung tên Unh Khanh D, sinh ngày 02/01/2013 cho chị Pốt Thị N là phù hợp khoản 2 Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Ghi nhận chị Pốt Thị N và anh Unh S không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. [5]. Về tài sản chung: Chị Pốt Thị N và anh Unh S không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung anh chị xác định không nợ ai nên không đặt ra giải quyết [6].Về án phí: Do chị Pốt Thị N là nguyên đơn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Anh Unh S không phải chịu án phí sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Pốt Thị N đối với anh Unh S. Chị Pốt Thị N được ly hôn với anh Unh S.

2. Về con chung: Giao cho anh Unh S trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Unh N T, sinh ngày 30/4/2015. Giao cho chị Pốt Thị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Unh Khanh D, sinh ngày 02/01/2013 cho. Chị Pốt Thị N và anh Unh S không ai phải cấp dưỡng nuôi con vì anh Unh S, chị Pốt Thị N không yêu cầu.

Chị Pốt Thị N, anh Unh S có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung sau khi ly hôn mà không ai được cản trở chị Pốt Thị N, anh Unh S thực hiện quyền này.

3. Về tài sản chung: Chị Pốt Thị N, anh Unh S không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết;

4. Về nợ chung: Không có, nên không có nên không đặt ra giải quyết.

5. Về án phí: Chị Pốt Thị N phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0017487 ngày 21/6/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Chị Pốt Thị N đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Anh Unh S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên toà hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

113
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 83/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:83/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;